My status

My backup memory
Hiển thị các bài đăng có nhãn Health Care. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Health Care. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 29 tháng 10, 2013

Lời khuyên dành cho người huyết áp thấp

Người bị huyết áp thấp thường hay bị tụt huyết áp đột ngột. Một phần vì do cách sinh hoạt hang ngày. Để điều chỉnh huyết áp về mức bình thường, những người có huyết áp thấp bệnh lý cần tuân thủ theo những lời khuyên sau

Về chế độ ăn uống

Tuy giữa chế độ ăn và huyết áp thấp không có sự liên kết chặt chẽ nhưng người ta thấy huyết áp thấp thường gặp ở những người ăn ít, hay bỏ bữa, khoảng cách giữa các bữa quá xa, dẫn đến giảm hàm lượng đường máu. Thói quen này làm giảm trương lực (sự đàn hồi, sự dẻo dai) của mạch máu, và kết quả là bị tụt huyết áp.
Do đó, người huyết áp thấp phải duy trì chế độ ăn hợp lý 3-4 bữa/ngày (ăn giảm khối lượng, tức chia nhỏ khẩu phần ăn trong ngày). Không được dùng chế độ ăn kiêng để giảm cân nhanh. Cơ thể gầy quá huyết áp sẽ thấp.
Chú ý ăn các thực phẩm sau:
  • Thịt, cá, trứng, đậu tương… giàu đạm
  • Tăng ăn rau và quả để thêm vitamin, chất xơ và chất khoáng
  • Một số thức ăn đồ uống có tác dụng làm tăng huyết áp như: cà phê, nước chè đặc, ăn thức ăn đậm đà muối, nước sâm, bột tam thất, nước nho.
Lưu ý là chất caffein trong cà phê có tác dụng làm tăng huyết áp nhưng người bị huyết áp thấp chỉ nên uống 1-2 cốc, uống quá nhiều sẽ gây nghiện, mất ngủ và rối loạn nhịp tim. Tốt nhất nên uống cà phê đậm đặc, cà phê không tan tự pha. Tuy nhiên, vì cà phê gây kích thích tiết dịch vị dạ dày nên những người bị viêm loét dạ dày nên uống cùng với bột kem cà phê. Nếu không uống được cà phê thì có thể thay thế bằng nước chè đặc.
Nên ăn hơi mặn một chút để gây giữ nước trong cơ thể, tăng lượng máu lưu thông trong lòng mạch máu, dẫn đến tăng huyết áp. Bình thường chúng ta ăn 10-12g muối mỗi ngày, để phòng và chữa bệnh tăng huyết áp chỉ nên ăn nửa số lượng trên, tức 5g mỗi ngày, nhưng người huyết áp thấp nên ăn 10-15g, ăn mặn được bao nhiêu thì hy vọng nâng được huyết áp lên bấy nhiêu. Tất nhiên không nên ăn mặn quá đến mức “không nuốt được”.
- Nếu huyết áp thấp do thiếu máu (yếu tố này hay gặp ở phụ nữ), nên tăng cường thức ăn chứa nhiều sắt như thịt nạc, gan động vật, mộc nhĩ, nấm hương khô, rau đay, quả lựu, táo.

Chế độ tập luyện

Rất nhiều người bị huyết áp thấp là do giảm trương lực thần kinh – mạch máu, thành mạch máu quá yếu (bị nhão), sức co bóp của tim yếu do cơ tim yếu (biểu hiện là tim đập nhanh, yếu). Để củng cố thành mạch và nâng cao khả năng đẩy máu của tim, người huyết áp thấp cần tích cực tập luyện thể dục thể thao.
Tập phải thường xuyên, tùy sức, không tập cố, không tập khi đói cũng như ngay sau khi ăn no. Riêng đi bộ nhanh có thể tập hằng ngày. Mỗi ngày, người bệnh nên tập thể dục ít nhất 10-15 phút. Nên bắt đầu tập những môn nhẹ như đi bộ, sau tiến tới cầu lông, bóng bàn, rồi đến những môn nặng hơn như chạy, bơi, tenis, điền kinh, cử tạ… Chỉ những môn hay gây chóng mặt mới nên tránh như nhào lộn, nhảy đu, leo cao…

Giữ tinh thần lạc quan, vui vẻ và nhất là bình tĩnh

Những xúc động quá mạnh như sợ hãi, lo lắng, buồn nản có thể làm huyết áp hạ thêm. Người bị huyết áp thấp nên tránh sự căng thẳng, áp lực trong công việc cũng như trong cuộc sống.

Dùng thuốc theo hướng dẫn

Cuối cùng, có thể dùng thêm một số thuốc theo hướng dẫn của thầy thuốc
Tây Y: Ða số thuốc này chỉ nâng huyết áp được vài tiếng đồng hồ, sau đó huyết áp lại xuống như cũ. Tuy vậy, chúng cũng có ích nhất thời, khi huyết áp xuống quá khó chịu. Thí dụ: heptamyl, coramin, long não… Ðôi khi cần dùng những thuốc mạnh hơn như fludrocortison dùng khó, phải có bác sĩ theo dõi chặt chẽ do có thể gây ra nhiều tác dụng phụ.
Theo Đông Y, nguyên nhân của huyết áp thấp là do khí huyết hư .Khí huyết hư làm cho lưu lượng máu đến các cơ quan bộ phận trong cơ thể đều kém và kém nhất là não gây ra hiện tượng hoa mắt chóng mặt, mệt mỏi vô lực, sắc mặt nhợt…
Người bị huyết áp thấp để nâng cao huyết áp cần phải bồi bổ khí huyết, khí huyết đầy đủ thì huyết áp mới ổn định lâu dài. Chính vì vậy mà phải dùng các vị thuốc hay bài thuốc có tác dụng bồi bổ khí huyết, điều hoà khí huyết. Nguyên lý này được kết tinh trong bài thuốc “Gia vị phù chính thăng áp thang” trong cuốn “Thiên gia diệu phương”- tổng hợp các tinh hoa của nền y học cổ truyền. Bài thuốc với các vị thuốc có tác dụng ích khí dưỡng âm bổ khí huyết, điều hoà khí huyết, giúp khí huyết lưu thông tốt, chống xơ vữa mạch, tăng sinh tân dịch, tăng cường sinh lực, tăng huyết áp.
Theo SK&ĐS

Chế độ ăn và luyện tập cho người huyết áp thấp

Huyết áp thấp thường gặp ở những người ăn ít, hay bỏ bữa, khoảng cách giữa các bữa quá xa, từ đó dẫn đến giảm hàm lượng đường máu
Ăn uống với người bị huyết áp thấp
Cách phòng bệnh huyết áp thấp

Nên:

Duy trì 3-4 bữa/ngày : Huyết áp thấp gặp nhiều ở những người ăn ít, hay bỏ bữa, khoảng cách giữa các bữa quá xa. Vậy việc duy trì chế độ ăn hợp lý từ 3-4 bữa/ngày là rất cần thiết. Đặc biệt người bị huyết áp thấp càng không được dùng chế độ ăn kiêng để giảm cân nhanh.

Có thể áp dụng một số thực phẩm có tác dụng tăng huyết áp : Một số thức ăn đồ uống có tác dụng làm tăng huyết áp như cà phê, nước chè đặc, ăn thức ăn đậm đà muối, nước sâm, bột tam thất, rau cần tây, nước nho. Nếu huyết áp thấp do thiếu máu (hay gặp ở phụ nữ), nên tăng cường thức ăn chứa nhiều sắt như thịt nạc, gan động vật, mộc nhĩ, nấm hương khô, cần tây, rau đay, rau rền, quả lựu, táo.

Nên ăn nhiều muối hơn: Nhiều người cho rằng những người bị huyết áp thấp nên ăn mặn một chút để làm tăng khối lượng tuần hoàn trong cơ thể nhờ tác dụng giữ nước của muối. Bình thường chúng ta ăn 10-12g muối mỗi ngày, người bị huyết áp cao nên giảm lượng muối mỗi ngày xuống còn 5g/ ngày còn người huyết áp thấp nên ăn 10-15g, ăn mặn có thể cải thiện tình trạng huyết áp thấp, tuy nhiên,người bệnh không nên lạm dụng vì ăn quá mặn sẽ nguy hiểm dễ gây tăng huyết áp khi nằm.

Nên uống nhiều nước hơn: Nên uống khoảng 10 cốc nước mỗi ngày, sau khi tập luyện thể thao hay trong những ngày hè nóng nên dùng nước trong thành phần có nhiều natri và kali.

Không nên:

Người bệnh huyết áp thấp nên hạn chế một số thực phẩm như cà rốt, cà chua, táo mèo, hạt dẻ nướng, sữa ong chúa, các thực phẩm có tính lạnh như  rau bina, cần tây, dưa, dưa hấu, đậu đỏ, đậu xanh, tỏi, tảo bẹ, hành tây, hạt hướng dương…  vì đây là những thực phẩm có tác dụng hạ huyết áp.
Tập luyện với người bị huyết áp thấp

Tập luyện thể thao hàng ngày không chỉ tốt với người bình thường mà còn có tác dụng với người bị huyết áp thấp. Tuy nhiên người bệnh nên cẩn thận lúc đứng lên đột ngột khi đang ở tư thế nằm và ngồi. Nên thở sâu vài phút trước khi đứng lên để tăng  tăng cường lưu thông máu đến các bộ phận của cơ thể.

Một số bài tập tốt cho người bị huyết áp thấp được biết đến như đi bộ, chạy, bơi, thể dục nhịp điệu, cầu lông, tập yoga  …

Một điều rất quan trọng với người bị huyết áp thấp mà rất nhiều người bỏ qua đó là việc thăm khám kiểm tra sức khỏe định kỳ. Theo lời khuyên đưa ra từ các chuyên gia sức khỏe, chúng ta nên khám sức khỏe định kỳ 6 tháng một lần để phát hiện sớm những trục trặc về sức khỏe để có hướng điều chỉnh ngay từ đầu.
---

Bệnh huyết áp thấp - khái niệm và nguyên nhân

Huyết áp thấp là gì?

Huyet-ap-thap-la-gi

Trong khi nhiều người lo sợ vì huyết áp cao thì ngược lại rất ít người quan tâm tới huyết áp thấp. Các bác sĩ tim mạch khuyến cáo, bất kỳ sự tăng - giảm nào so với mức bình thường đều nguy hiểm.



Huyết áp là sức đẩy của dòng máu tác động lên thành động mạch nhằm đưa máu đến nuôi dưỡng các mô trong cơ thể, mỗi khi tim đập là lúc huyết áp cao nhất và gọi là huyết áp tâm thu. Khi tim nghỉ, khoảng thời gian giữa 2 lần tim đập thì huyết áp giảm đi, đó là huyết áp tâm trương



Chỉ số huyết áp phải căn cứ vào độ tuổi và tình trạng sức khỏe của từng người. 



Ở người khỏe mạnh, từ độ tuổi trưởng thành cho đến 30-45 tuổi: huyết áp tâm thu là 90-110mmHg, huyết áp tâm trương là 70-90mmHg được cho là bình thường. Từ 40 tuổi trở lên thì cứ mỗi 10 tuổi, mỗi chỉ số cộng thêm 10.



Huyết áp thấp là tình trạng huyết áp tâm thu dưới 90mmHg và huyết áp tâm trương dưới 60mmHg hoặc giảm hơn 20mmHg so với trị số huyết áp bình thường trước đó.


Nguy hiểm không kém so với bệnh huyết áp cao



Nếu so sánh với bệnh huyết áp cao, huyết áp thấp trước mắt không dẫn đến biến chứng như tai biến mạch máu não, nghẹn tắc cơ tim… nên nhiều người rất chủ quan với căn bệnh này. Tuy nhiên, ít người biết được rằng bệnh cũng có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm không kém. 



Khi bệnh nhân bị tụt huyết áp nhiều lần, hệ thống thần kinh bị suy giảm chức năng, cơ thể không tự kịp điều chỉnh để cung cấp đủ dinh dưỡng và oxy cho các cơ quan có chức năng sống còn như não, tim, thận gây tổn thương các cơ quan này. 



Nếu không được điều trị kịp thời, bệnh có thể dẫn đến tình trạng đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, suy thận... thậm chí nguy hiểm đến tính mạng. Nhiều trường hợp có thể dẫn tới tai biến mạch máu não, trong đó phần lớn là nhồi máu não, tỷ lệ này chiếm khoảng 30%. 

Triệu chứng và nguyên nhân

trieu-chung-benh-huyet-ap-thap
Chóng mặt là biểu hiện của tụt huyết áp


Huyết áp thấp dễ xảy ra với những người quá lao lực, thể trạng yếu, suy dinh dưỡng, phụ nữ… với những triệu chứng: mệt mỏi, lả và rất muốn được nghỉ ngơi, hoa mắt chóng mặt. Khó tập trung và dễ nổi cáu, có cảm giác buồn nôn. 



Suy giảm khả năng tình dục. Da nhăn và khô, kèm theo rụng tóc. Vã mồ hôi nhưng vẫn cảm thấy lạnh. Thở dốc, nói như hụt hơi nhất là sau khi leo lên cầu thang hay làm việc nặng, khi thay đổi tư thế có thể choáng váng, xây xẩm mặt mày…



Có nhiều nguyên nhân gây nên tụt huyết áp. Có thể do sự suy giảm chức năng của các cơ quan như tâm, thận, tỳ dương, hoặc do hệ thống thần kinh tự động của cơ thể không tự điều chỉnh được dẫn đến tụt huyết áp tư thế. 



Cũng có thể do yếu tố di truyền, những người có thể trạng yếu, hoặc người mắc một số bệnh huyết học kèm theo như viêm loét dạ dày tá tràng, viêm đại tràng mạn tính, lao...



Các nghiên cứu đã cho thấy, đối tượng mắc bệnh thường thuộc các dạng sau: 



- Cơ thể bị suy nhược do làm việc quá sức, stress, mất ngủ, với người phải áp dụng giảm cân vì mắc các bệnh tim mạch, béo phì, tiểu đường. 

- Do suy giảm hoạt động của tuyến giáp. Khi cơ thể bị thiếu hụt hàm lượng hormon của tuyến giáp, sẽ có nguy cơ mắc chứng huyết áp thấp, kèm theo các triệu chứng hoa mắt chóng mặt, rụng tóc. 
- Do suy giảm glucoza. Nếu hàm lượng đường trong máu giảm xuống dưới mức 2.5mmol/l, bạn có thể sẽ phải chịu đựng cảm giác mệt mỏi, run rẩy và vã mồ hôi. 
- Hàm lượng hemoglobin thấp. Một người khoẻ mạnh hàm lượng hemoglobin trong máu ở mức 100 milliters. Ở nam giới hàm lượng này ở mức 13,5 tới 17,5 g/dl còn ở nữ giới là 11,5 tới 15,5g/dl. Khi hàm lượng hemoglobin thấp tức là dưới mức 9g/dl sẽ khiến cho lượng oxy vận chuyển tới não và tim bị suy giảm, có thể làm cho cơ thể choáng váng hoa mắt, chóng mặt.
- Nhịp tim chậm. Nếu nhịp tim đập dưới 60 nhịp trong một phút, sẽ không đủ lượng máu và oxy lưu thông trong cơ thể dẫn tới hạ huyết áp

Kiểm soát huyết áp thấp

phong-benh-huyet-ap-thap
Đo huyết áp là cách tốt nhất để nhận biết huyết áp thấp

Theo các bác sĩ, tốt nhất người bị huyết áp thấp nên tuân thủ theo chế độ sinh hoạt và ăn uống như sau: 



- Nên dành nhiều thời gian để nghỉ ngơi và ăn uống điều độ, không nên bỏ bữa, vì nhịn đói sẽ gây tụt huyết áp do hạ đường huyết.

- Ăn mặn hơn người bình thường (10-15g muối/ngày). 

- Tập thể dục nhẹ nhàng và đều đặn như đi bộ, thể dục dưỡng sinh, Yoga…

- Ngủ đủ giấc, tránh làm việc căng thẳng và lưu ý nên dùng ngay một tách càphê, trà đường nóng, dùng gừng, nhân sâm, hay các thuốc bổ tổng hợp Vitamin khi bị tụt huyết áp…

- Đi lại từ tốn, uống nhiều nước, giảm uống rượu, ăn đủ chất gồm hạt toàn phần, rau quả, thịt nạc, ăn nhiều bữa trong ngày, hạn chế bột và đường.



Các bác sĩ tim mạch khuyến cáo, huyết áp cao và thấp đều nguy hiểm đến tính mạng nếu như không được phòng tránh và chữa trị kịp thời. Chính vì thế mà mọi người, nhất là những đối tượng dễ bị bệnh như học sinh, sinh viên, người lao động cần phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra tình hình sức khỏe thường xuyên, nếu có những dấu hiệu của huyết áp thấp, cần phải đến các trung tâm y tế để đo huyết áp và nghe tư vấn của các bác sĩ về tình hình sức khỏe của mình 



Để phòng tránh huyết áp thấp, chúng ta hãy giành một khoảng thời gian nhất định để nghỉ ngơi, đặc biệt phải ngủ đủ thời gian để tránh bị chứng mất ngủ kinh niên và không bị mắc các bệnh liên quan đến tim mạch.


Theo  Blog sức khỏe gia đình
---

Chữa huyết áp thấp bằng Đông y

Cà phê là đồ uống tốt cho người huyết áp thấp.

Người bị huyết áp thấp không nên dùng những thức ăn có tính lợi tiểu như rau cải, râu ngô, dưa hấu, bí ngô... Nên tắm nước nóng để tăng cường lưu thông máu nhưng đừng tắm quá lâu.

Huyết áp được coi là thấp khi chỉ số tâm thu (tối đa) dưới 90 mmHg, tâm trương dưới 60 mmHg. Áp lực máu chậm và yếu, lưu lượng máu đưa đến các tổ chức thiếu nên bệnh nhân bị hoa mắt, chóng mặt, choáng váng, đau đầu, tức ngực, tinh thần mệt mỏi, ngủ không sâu, có lúc thoáng ngất.
Bệnh huyết áp thấp có 3 loại. Loại nguyên phát liên quan đến thể chất gầy còm, gặp nhiều ở nữ tuổi từ 20 đến 40 và có xu hướng di truyền. Huyết áp thấp thứ phát xuất hiện do một số bệnh mạn tính gây thiếu máu hoặc kém dinh dưỡng kéo dài như bệnh huyết học, viêm loét dạ dày - tá tràng, viêm đại tràng mạn, suy giáp, lao...
Loại thứ ba là tụt huyết áp tư thế: Khi ngồi dậy hoặc đứng dậy đột ngột, bệnh nhân thấy choáng váng, xây xẩm mặt mày, nhức đầu, mất thăng bằng, có khi ngã.
Theo khuyến cáo của các bác sĩ, người huyết áp thấp hay bị hoa mắt, chóng mặt khi thay đổi tư thế, nên khi ngồi dậy phải từ từ. Nằm ngủ nên để đầu thấp, chân cao. Nên sinh hoạt điều độ, ăn uống có nhiều chất dinh dưỡng, nên ăn mặn hơn người bình thường; uống các loại nước có tác dụng nâng huyết áp như trà sâm, trà gừng, trà đặc, cà phê. Bệnh nhân cũng phải rèn luyện thân thể đều đặn, tốt nhất nên tập bơi, đi bộ, tập dưỡng sinh, thái cực quyền.
Một số bài thuốc:
- Thịt chó 1 kg, phụ tử chế, nhục quế, gừng khô mỗi thứ 10 g, cho ít rượu, hạt tiêu, gia vị khác, đun nhỏ lửa, hầm nhừ, ăn trong 3 đến 5 ngày, nghỉ một tuần rồi ăn tiếp. Điều trị từ 3 đến 4 liệu trình.
- Thịt chó đen 250 g, hồng sâm 25 g, chích hoàng kỳ 25 g, liên nhục 70 hạt, phụ tử chế 6 g, nhục quế 3 g, thục địa 20 g, nước củ sả 2 thìa canh. Gia vị vừa đủ. Thịt chó rửa sạch bằng nước chanh hòa với ít nước sôi để nguội; ướp gia vị và nước củ sả, bỏ liên nhục lên trên. Tất cả các vị thuốc khác cho vào ấm sắc, lọc kỹ, đổ vào thịt đã ướp. Cho các thứ đã tẩm ướp vào nồi, đun cách thủy sôi độ 4 giờ là vừa.
Tuần ăn 1 lần, ăn liên tục trong 6 tuần.
- Sâm triều tiên 50 g, lộc nhung 50 g, ngâm với nửa lít rượu trắng. Mỗi ngày uống một chén con vào bữa ăn.
- Chè lâu năm (lá chè già trên 3 năm) rang lên, cho cùng 10 g nhân sâm và ít gừng vào nước, đun sôi 10-15 phút (nên dùng ấm đất). Uống ngày 2 lần, chỉ dùng từng đợt từ 5 đến 7 ngày.
- Nhân sâm tán bột 25 g, tử hà sa (tán bột) 50 g. Trộn với mật ong, mỗi lần uống từ 3 đến 5 g, ngày uống 2 lần vào buổi sáng và trưa.
- Hoàng kỳ, kỷ tử, mạch môn, đương quy, sinh địa mỗi thứ 12 g, dâm dương hoắc 8 g, ngũ vị tử 6 g, đẳng sâm 16 g. Sắc uống mỗi ngày một thang.
ThS Nguyễn Thùy Hương, Sức Khỏe & Đời Sống
 

 

Thứ Hai, 4 tháng 3, 2013

Những bài thuốc phòng trị cảm cúm hiệu quả

Các bài thuốc từ bồ công anh, rau má, cam thảo đất, nước tỏi - nghệ... chữa cảm cúm hiệu quả. Đóng kín cửa, chưng cách thủy giấm ăn cho bốc hơi có thể phòng bệnh trong mùa cúm.
Bệnh cúm cũng là cảm mạo nhưng khởi phát đột ngột, lây nhiễm rất nhanh, tạo thành dịch bệnh nguy hiểm.
Triệu chứng bệnh là sốt cao (39-40oC), nhức đầu, đau nhức toàn thân, nghẹt mũi, sổ mũi, cổ họng đau rát, người bơ phờ, mệt mỏi. Có thể gây biến chứng ở hệ hô hấp và ở ruột.
Phép chữa: Sơ phong tuyên phế, giải độc, giải biểu.
Dược liệu: Sử dụng dược liệu giống như cảm mạo thông thường nhưng tăng liều lượng và gia thêm một vài vị thuốc có tính giải độc như bồ công anh 12-16g, kim ngân hoa 12-16g, thổ phục linh 12-16g, liên kiều 12-16g, chi tử 10-12g, rau má 10-12g, có mực 10-12g, cỏ mần trầu 8-10g…
Hoa bồ công anh cũng là một vị thuốc trị cảm cúm hiệu quả.
Hoa bồ công anh cũng là một vị thuốc trị cảm cúm hiệu quả. Ảnh: svn
Một số bài thuốc chữa bệnh cúm 
- Lá húng chanh 10g, bạc hà 8g, kinh giới 10g, cối xay 12g, bạch chỉ 6g, kim ngân hoa 12g, cam thảo đất 12g. Nấu với 750ml nước, sắc còn 300ml, chia 2 lần uống trước bữa ăn.
- Rau má 12g, hương nhu 10, đậu ván (sao) 12g, bồ công anh 12g, kim ngân hoa 12g, kinh giới 10g, bạc hà 8g, lá dâu tằm 8g, cam thảo đất 10g, lức dây (cúc tần) 10g. Sắc uống như trên.
- Hoàng kỳ 16-30g, cam thảo bắc 4-6g. Đây đều là các thuốc có tác dụng tăng cường chức năng miễn dịch của cơ thể. Dùng hai vị này sắc cho bệnh nhân uống, kết hợp với uống Tamiflu theo phác đồ của Bộ Y tế. Khảo sát gần 100 trường hợp đều thấy bệnh nhân nâng cao được thể trạng, sức đề kháng tăng, hạ sốt nhanh, số ngày điều trị giảm, có chuyển biến sức khỏe tốt, không có trường hợp bệnh chuyển sang chiều hướng nặng.
Một số món ăn nên dùng khi bị cúm
- Nước tỏi - nghệ: Củ tỏi 30-50g, củ nghệ 10-20g, đường vừa đủ.
Tỏi bóc vỏ, củ nghệ gọt vỏ, rửa sạch. Hai thứ giã nhỏ, hòa với ít nước sôi, lọc lấy 50-100ml nước, thêm ít đường vào quậy đều, chia 2-3 lần cho uống vào lúc không no, không đói quá.
Có thể nấu gạo tẻ 50-100g thành cháo nhừ, cho nước tỏi - nghệ vào nấu sôi lại là được. Chia 2-3 lần cho ăn vào lúc đói bụng.
- Canh cải xoong - thịt lợn: Cải xoong (xà lách xoong) 100-150g, kinh giới 20-30g, gừng tươi 3 lát mỏng, thịt lợn nạc 50-100g. Gia vị nước mắm, muối, bột nêm.
Rau cải xoong nhặt kỹ rửa sạch, cắt ngắn. Rau kinh giới rửa sạch, cắt nhỏ. Gừng rửa sạch, giã nát. Thịt lợn nạc rửa sạch, xắt miếng mỏng, cho vào nước lạnh đun sôi, hớt bỏ bọt, nêm nếm gia vị vừa ăn. Cho rau vào đun sôi lại, bắc ra ngay. Múc ra bát, ăn nóng trong bữa cơm hoặc ăn không vào lúc đói bụng.
Một số món ăn có ích, giúp tăng cường sức đề kháng của cơ thể, trong thời gian có dịch cúm lưu hành
Canh đậu hũ chua cay
Đậu hũ 150g cắt sợi vừa, dùng nước sôi luộc sơ, vớt ra, ngâm nở 10g mộc nhĩ, 50g củ cải, 50g cà rốt, tất cả đề xắt sợi.
Đun sôi 150ml nước, cho mộc nhĩ, củ cải, cà rốt vào trước, đun tiếp, thêm muối, bột ngọt và 20ml giấm vào, sốt cho sền sệt mới cho đậu hũ vào, nấu chín, thêm hành, tiêu, dầu mè vào, ăn nóng.
Cháo vịt
Thịt vịt 150g, 100g gạo nếp, một ít rượu trắng, muối.
Cắt thịt vịt ra thành hột lựu, gạo nếp cho nước vào nấu cháo, sau đó cho thịt vịt, một ít rượu, muối vào nấu chín.
Cháo ý dĩ, bông atisô, đậu xanh
 Ý dĩ 100g, đậu xanh 50g, bông atisô 150g, đường cát trắng.
Rửa sạch bo bo và đậu xanh, tách bông atisô thành từng cánh, lột bỏ lớp màng bên trong, rửa sạch. Cho một lượng nước vừa phải vào nồi, cho đậu xanh vào trước, nấu chín, tiếp đó cho thêm bo bo vào nấu gần chín thì cho thêm bông atisô vào, dùng lửa nhỏ nấu thành cháo, cho thêm ít đường là ăn được.
Súp ngân nhĩ
Ngân nhĩ (nấm tuyết) 5g, đường phèn 50g.
Ngâm ngân nhĩ trong nước ấm 30 phút, đợi khi nở đều, cắt bỏ phần cuống, loại bỏ tạo chất, đem xé thành từng miếng nhỏ, cho vào nồi sạch, thêm lương nước vừa phải, dùng lửa to đun sôi, hầm với lửa nhỏ 2-3 tiếng, cho đường phèn vào hầm đến khi ngân nhĩ nát ra mới thôi.
Súp sữa, vừng
Sữa bò 250g, vừng 25g, đường phèn 40g.
Xào vừng đế khi chín bốc mùi thơm rồi xay thành bột. Sau khi đun sôi sữa thì cho vừng, đường phèn vào khuấy đều. Súp sữa, vừng có tác dụng trợ tỳ ích vị, dưỡng âm thuần táo.
Củ năng xào thịt
Củ năng 200g, thịt lợn nạc 200g, dầu ăn, hành, gừng, rượu, muối, bột năng hoặc bột bắp.
Củ năng gọt vỏ, rửa sạch, cắt hột lựu, thịt nạc rửa sạch cắt hạt lựu. Trộn một ít muối, hành, gừng, rượu, bột vào thịt. Đun nóng chảo, cho dầu vào, đợi dầu sôi cho thịt vào, đảo đều, xào một lát rồi cho củ năng vào xào chín là được.
Nấm hương (nấm đông cô) ninh xà lách
- Nguyên liệu: Nấm hương 10g, xà lách (hoặc xà lách xoong) 100g, hành thơm 1 cọng, gừng 20g, dầu hào 2 thìa, muối, đường, bột năng.
- Cách làm: Nấm hương cắt bỏ cuống, rửa sạch, dùng dầu phi thơm hành, gừng rồi vớt ra, dùng dầu còn lại xào nấm tươi, rồi cho dầu hào, đường, muối vào đun sôi, sau đó dùng lửa nhỏ nấu cho thấm gia vị. Dùng bột làm sệt nước chấm, xà lách cắt miếng to, rửa sạch rồi dùng dầu xào chín, cho gia vị vào, xào xong ráo nước xếp vào mâm rồi cho nấm tươi xào lên trên.
Để phòng ngừa cảm cúm, cần lưu ý:
-  Không để cơ thể quá mệt mỏi do sinh hoạt, lao động, vui chơi quá nhiều, nhất là khi gặp trời mưa to, gió lạnh hoặc nắng nóng.Cần ngủ đủ giấc, không để mất ngủ hoặc thiếu ngủ.
- Nên ăn uống đầy đủ, cân đối các chất dinh dưỡng. Chú ý ăn thường xuyên các loại thực phẩm có tác dụng nâng cao sức đề kháng, chống cảm cúm như: tỏi, hành tím, hành tây, đinh hương (giàu chất allicin), nghệ, gừng, mật ong, các loại rau thơm, các loại trái cây chứa nhiều khoáng chất, nhiều vitamin…
Giữ vệ sinh để phòng ngừa nhiễm cúm
Để phòng ngừa cúm, ngoài việc mang khẩu trang đúng cách, thì việc rửa tay thường xuyên bằng xà phòng ít nhất 20 giây sau khi tiếp xúc với các vật dụng nơi công cộng là rất cần thiết.
Nên sử dụng giấy lót tay  khi sử dụng các vật dụng dùng chung với người khác như ly, chén, tay nắm cửa phòng, điện thoại công cộng…
Không dùng chung các dụng cụ vệ sinh cá nhân có thể là tác nhân truyền bệnh như khăn, bàn chải, dao cạo...
Ở trường hợp không có nước, có thể sử dụng các dung dịch chứa cồn có tác dụng diệt khuẩn để rửa tay.
Khi hắt hơi hay ho, cần phải che miệng, che mũi bằng khăn giấy rồi bỏ vào sọt rác, nếu dùng khăn vải thì sau đó phải rửa thật sạch. Nếu ho hay hắt hơi vào tay, phải lau rửa tay sạch sẽ.
Virus cúm có thể lây lan từ tay người này sang người khác do vậy lưu ý không dùng tay để dụi mắt, ngoáy mũi.
Tránh tiếp xúc với những người bị nghi ngờ nhiễm cúm, đặc biệt là những ngày đầu họ vừa có triệu chứng này. Nghỉ ngơi ở nhà nếu thấy có triệu chứng nhiễm cúm.
Vệ sinh nhà cửa sạch sẽ và thường xuyên lau chùi, khử khuẩn bề mặt bàn ghế, vật dụng nơi ở và nơi làm việc.
Gặp mùa có dịch cúm, ngoài việc giữ gìn vệ sinh thân thể, vệ sinh môi trường, có thể phòng ngừa bằng cách đóng kín các cửa sổ, đổ khoảng 5ml giấm ăn + một ít nước vào 1 chén sứ rồi đem chưng cách thủy để hơi giấm bốc lên tỏa khắp căn phòng. Có thể cho hỗn hợp giấm + nước vào 1 nồi đất hoặc nồi thủy tinh, nồi inox, đặt trên một bếp điện để nấu cho bốc hơi. Ngày làm 2 lần vào lúc sáng sớm và lúc chiều tối. Các phòng ngừa này gọi là thực thố huân chưng, dễ làm, không tốn kém mà lại có hiệu quả tốt.                 
Lương y Đinh Công Bảy
Tổng Thư ký Hội Dược liệu TP HCM

Thứ Bảy, 15 tháng 12, 2012

Những cách đơn giản để sống lâu

Sống lâu là mơ ước của nhiều người. Nhưng làm thế nào để sống lâu? Bí kíp có nhiều khi lại rất đơn giản và nghe có vẻ rất hài hước. 

Đọc báo ngược
Tiến sĩ Marios Kyriazis, một chuyên gia về lão hóa ở Mỹ, cho biết việc đọc báo ngược có thể khiến bộ não của bạn có chút căng thẳng nhưng đồng thời cũng giúp bạn gia tăng tuổi thọ. Với một số việc làm “trái khoáy” kiểu này chẳng hạn như viết bằng tay không thuân, lập luận ngược lại với những gì bạn tin tưởng một cách nồng nhiệt, thậm chí nghe thứ âm nhạc mà bạn không ưa, bạn có thể tiến thêm trên nấc thang tuổi thọ.
Ăn thực phẩm có màu đỏ


Ớt đỏ chứa nhiều vitamin C hơn; cam, củ cải đường có chữa nitrat giúp thư giãn mạch máu, cà chua có lycopene (một chất giúp chống oxy hóa mạnh mẽ) mà khi nấu chín, có thể giúp chống lại bệnh ung thu, tim mạch và một số vấn đề khác. Điều này đã được tiến sĩ Susan Jebb, thuộc Hội đồng Nghiên cứu Y khoa về dinh dưỡng ở Cambridge xác nhận. Vì vậy, nếu muốn sống thọ, hãy ưu ái các thực phẩm có màu đỏ!
Chạy một dặm nhanh hết mức bạn có thể
Theo một nghiên cứu của Viện Cooper, Texas, khi bạn ở tuổi 40 hoặc 50, tốc độ chạy bộ một dặm của bạn là dự đoán khá chính xác về tình hình bệnh tim mạch của bạn 30-40 năm sau. Tốc độ được cho là tốt là 8 phút đối với nam giới và 9 phút với nữ giới. Nhưng nếu bạn gặp khó khăn để hoàn thành một dặm chạy bộ (chẳng hạn, nữ giới mất tới 12 phút để hoàn thành), bạn có 30% nguy cơ mắc bệnh tim và bỏ mạng vì căn bệnh này. Lời khuyên đưa ra là hãy chăm chỉ tập chạy bộ!
Cẩn thận với những nơi vệ sinh công cộng
Dĩ nhiên không thể tránh xa những nơi vệ sinh công cộng. Bạn không thể có một nhà vệ sinh di động để mang theo mỗi ngày được. Nhưng các quý ông, quý bà xin hãy lưu ý tới các nắm cửa vào các nhà vệ sinh công cộng. Đó là cái một cái ổ vi khuẩn mà có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và âm thầm tấn công hệ thống miễn dịch của các bạn. Để đố phó với vấn đề này, Hugh Pennington, Giáo sư danh dự về vi khuẩn tại Đại học Aberdeen, cho biết: “Tôi luôn cố gắng chỉ sử dụng phần dưới của tay nắm cửa, hạn chế để toàn bộ bàn tay tiếp xúc với ổ vi khuẩn này”.
Ăn chuối


Bạn có thể giám nguy cơ đột quỵ và bệnh tim bằng cách đơn giản là “nạp” các loại thực phẩm giàu kali như chuối, nước ép trái cây và trái cây khô. Lượng kali cần được nạp vào cơ thể hằng ngày là 3,5 kg. Để giảm huyết áp, bạn cần tới 4,7g kali – lượng kali được tìm thấy chính xác trong một quả chuối.
Tập ngồi xổm
Ngồi xổm được coi là bài tập tăng cường tất cả cơ bắp hiệu quả nhất (tương đương với một bài tập toàn thân). Tập ngồi xổm giúp bạn có thể nhanh chóng rời khỏi một chiếc ghế (hoặc rời bồn cầu) một cách nhanh chóng vào lúc tuổi già và ngăn ngừa té ngã.  
Uống trà mỗi ngày
Uống trà mỗi ngày được chứng minh là giảm mức độ căng thẳng và giúp tăng tỉ lệ sống sót sau một cơn đau tim tới 28%. Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học Y Harvard tin rằng chất chống oxy hóa trong trà có thể giúp các mạch máu thư giãn.
Ngủ thêm một giờ
Chỉ cần đi ngủ thêm một giờ là có thể giúp giảm nguy cơ đau tim và đột quỵ của bạn trong ít nhất sáu tuần. Một nghiên cứu gần đây từ trường Kinh doanh Harvard cho thấy những người ngủ bảy tiếng hoặc ngủ  ít hơn trong một ngày khi ngủ thêm một giờ  có những tiến triển đáng kể về sức khỏe tim mạch. Các nhà nghiên cứu cũng cho biết việc ngủ quá ít ảnh hưởng đến khả năng đối phó với các kích thích tố căng thẳng.
Uống sữa chua
Sữa chua không chỉ giúp cho đường ruột của bạn khỏe mạnh mà còn có tác dụng tích cực đến khả năng miễn dịch. Nhiều chuyên gia tin rằng lượng probiotic có trong sữa chua củng cố khả năng miễn dịch cho con người tốt hơn so với cả gel rửa tay. Một vài nghiên cứu cũng cho thấy việc bổ sung probiotic một vài ngày trước khi phẫu thuật làm giảm đáng kể nguy cơ nhiễm trùng giai đoạn hậu phẫu.
Dùng chỉ tơ nha khoa


Vi khuẩn gây sâu răng, viêm răng kích hoạt trong các động mạch cũng là một yếu tố gây bệnh tim. Dùng chỉ tơ nha khoa giúp hạn chế điều này, đồng thời cũng có thể chống lại bệnh tiểu đường và mất trí nhớ.
Thở bằng rơm
Chỉ mất vài phút mỗi ngày, bạn có thể bắt đầu bài tập hít thở qua một cọng rơm hoặc một ống hút. Với bài tập đơn giản này, bạn sẽ thở sâu hơn. Điều này giúp cải thiện chức năng của phổi.
Đừng sợ những điều tồi tệ nhất
Biết lo lắng cho sức khỏe không phải là một điều xấu. Nhờ đó, bạn có nhiều cơ hội để hành động một cách kịp thời. Tuy nhiên, lúc nào cũng lo lắng lại không phải là một liều thuốc tốt cho sức khỏe. Những người suy nghĩ quá u ám có nhiều khả năng gặp rủi ro hơn, dễ có phản ứng tiêu cực (ví dụ như từ chối uống thuốc khi mắc bệnh) và vì thế, tuổi thọ ngắn hơn.
Quan hệ tình dục ít nhất hai lần một tuần'


Một chuyên gia Mỹ ước tính quan hệ tình dục ít nhất ba lần một tuần có thể thêm hai năm để cuộc sống của bạn (bằng cách tăng nhịp tim và lưu lượng máu) – khiến tuổi thọ của bạn có thể tăng thêm tám năm! Nghiên cứu về những người đàn ông trong độ tuổi từ 45-50 ở South Wales (nghiên cứu đoàn hệ Caerphilly) phát hiện ra rằng quan hệ tình dục thường xuyên làm giảm 50% nguy cơ tử vong. Ngoài ra, thường xuyên làm chuyện ấy cũng giúp tiết ra DHEA, một chất chống trầm cảm tự nhiên, đặc biệt đối với phụ nữ.
Quên điều gì đó mỗi ngày
Đừng nổi điên vì bạn lỡ quên mất lịch trình xe buýt, không tài nào nhớ nổi tên của người bạn vừa gặp trong bữa tối hay không nhớ nổi cốt truyện của những bộ phim truyền hình dài lê thê. Quên một điều gì đó không cần thiết là cách giúp bộ não của bạn “dễ thở” hơn mỗi ngày.
Hào phóng trao tặng nụ cười


Nụ cười phản ứng những cảm xúc tích cực có liên quan tới sự khỏe mạnh về thể chất lẫn tinh thần. Mỉm cười tạo ra các hóa chất có thể làm bạn thấy hạnh phúc hơn, ngay cả khi bạn đang cười một cách gượng gạo.
 Hà Nguyễn

Thứ Bảy, 13 tháng 10, 2012

Phác đồ điều trị dạ dày



I. Loét dạ dày – tá tràng có nhiễm HP (Active HP-associated ulcer):
Phác đồ chung:
PPI + AC/AM/MC/BMT.
(PPI: Omeprazole 20mg/Lanzoprazole 30mg/Pantoprazole 40mg/Rabeprazole 10mg).
Uống thuốc 2 lần/ngày, trước bữa ăn sáng và buổi tối trước khi đi ngủ, kết hợp với:
+
Phác đồ 1:
PPI/RBC + ACAC
Amoxicilline 1000mg x 2 lần/ngày + Clarithromycin 500mg x 2 lần/ngày.
Hoặc: RBC 400mg x 2 lần/ngày+ AC
+ Phác đồ 2:
PPI + MC
Metronidazole 500mg x 2 lần/ngày + Clarithromycin 500mg x 2 lần/ngày.
+ Phác đồ 3:

PPI + AM:
Amoxicilline 1000mg x 2 lần/ngày + Metronidazole 500mg x 2 lần/ngày.
+ Phác đồ 4:
PPI + BMT
Bismuth subsalicylate 2v x 4 lần/ngày, kết hợp với:
Metronidazole 250mg x 4 lần/ngày + Tetracycline 500mg x 4 lần/ngày.
Điều trị từ 1 đến 2 tuần tấn công sau đó duy trì bằng PPI ngày 1 lần vào buổi sáng trước ăn trong 4 – 8 tuần.
        
* Các phác đồ thường dùng theo thứ tự ưu tiên như sau:
- OAC: Omeprazole + Amoxicilline + Clarithromycine.
- OMC: Omeprazole + Metronidazole + Clarithromycine.

- OAM: Omeprazole + Amoxicilline + Metronidazole.

II. Tái nhiễm HP không kèm loét:
- Phác đồ 4 thuốc: PPI + BMT trong 1 tuần, hoặc:
- Phác đồ 3 thuốc: PPI + 2 kháng sinh trong 1 tuần.

III. Tái nhiễm HP có kèm loét tái phát:
-
Phác đồ 4 thuốc hoặc 3 thuốc trong 1 tuần, sau đó, nếu:
+ Loét hành tá tràng có/không biến chứng: PPI/kháng H2 receptor trong 3 tuần, hoặc:
+ Loét dạ dày điều trị như loét hành tá tràng nhưng thời gian điều trị là 5 tuần.

IV. Loét tái phát không kèm tái nhiễm HP:
Tìm nguyên nhân như: NSAIDs, hội chứng Zollinger-Ellison…
- PPI/kháng H2 receptor x 4 – 6 tuần tùy theo loét dạ dày hay tá tràng.
V. Loét dạ dày – tá tràng không có nhiễm HP (Active ulcer not attributable to HP):
1. Do dùng thuốc NSAIDs, Corticoid, u ác tính dạ dày:
a. Thuốc ức chế bơm Proton:
- Loét hành tá tràng không biến chứng:
+ Omeprazole 20mg/Lansoprazole 15mg/ngày x 4 tuần.
- Loét dạ dày hoặc loét có biến chứng:
+ Omeprazole 20mg x 2 /Lansoprazole 30mg x 6 – 8 tuần.
b. Thuốc đối kháng H2 receptor:
- Loét hành tá tràng không biến chứng:
+
Cimetidine 800mg x 2 /Ranitidine/Nizatidine 300mg x 2 /Famotidine 40mg lúc ngủ trong 6 tuần.
- Loét dạ dày:
+
Cimetidine 400mg x 2 /Ranitidine/Nizatidine 150mg x 2 /Famotidine 20mg x 2 trong 8 – 12 tuần.
Loét có biến chứng không khuyến cáo dùng thuốc đối kháng H2 receptor.
c.  Sulcralfate 1g x 4 trong trường hợp loét hành tá tràng không biến chứng.
2.  Điều trị hội chứng Zollinger-Ellison:
PPI: Omeprazole/Lansoprazole 60mg/ngày.

VI. Điều trị dự phòng giảm loét:
Dự phòng khi có loét hoặc biến chứng từ trước, sử dụng NSAIDs, corticoid, thuốc kháng đông, người già > 70 tuổi.
- Điều trị tấn công:
+ Misoprostol (Cytotec) 100 – 200
gg x 4lần/ngày, hoặc:
+ PPI x 2 lần/ngày.
- Điều trị duy trì:
Thuốc đối kháng H2 receptor:Cimetidine 400-800mg/Ranitidine/Nizatidine 150-300mg/Famotidine 20-40mg, uống lúc đi ngủ.
------------------------------------------------
Từ viết tắt:
- PPI: Proton pump inhibitors.
- RBC (Ranitidine Bismuth Citrate).
- AC: Amoxicicline + Clarithromycin.
- AM: Amoxicicline + Metronidazole.
- MC: Metronidazole + Clarithromycin.
- BMT: Bismuth subsalicylate + Metronidazole + Tetracyclin.
Có thể thay Metronidazole bằng Tinidazole.

- HP: Helicobacter pylori.
- NSAIDs: Non-Steroidal Anti-Inflammatory Drugs.
-------------oOo-------------

Tài liệu tham khảo
1. Trần Thiện Trung – Viêm loét dạ dày – tá tràng và vai trò của Helicobacter pylori, NXB Y học, 2002.
2. Current – Medical Dignosis & Treatment – Peptic Ulcer Disease, p. 599-605, 39th Edition 2000.
3. John Del valle – Peptic Ulcer Disease and Related Disorders – Harrison’s Principles of Internal Medicine – 15th Edition (CD Disk).
-----------------------------------------------------
Phụ lục
A. Các nhóm thuốc điều trị loét dạ dày – tá tràng:
I. Thuốc kháng tiết acid (Acid – Antisecretory Agents):
Thuốc ức chế bơm Proton H+, K+ ATPase (Proton pump inhibitors):
- Omeprazole 20mg: Losec, Helinzole, Omemax, Belifax, Lomax.
- Esomeprazole 20-40mg: Nexium.
- Lansoprazole 30mg: Prevacid
- Pantoprazole 40mg: Pantoloc, Protonix
- Rabeprazole 10mg: AcipHexThuốc đối kháng thụ thể H2 (H2 Receptor Antagonists):
- Cimetidine, Ranitidine, Nizatidine, Famotidine (Pepcid).
II. Thuốc tăng cường bảo vệ niêm mạc (Agents Enhancing mucosal defenses):
-  Sucralfate: Aluminium hydroxide & Sulfate (viên).
Điều trị duy trì: 1g 1 giờ trước ăn và lúc đi ngủ hoặc 2g x 2 lần/ngày, tấn công 1g x 4 lần/ngày trong 4-6 tuần, trước 3 bữa ăn chính và trước ngủ.
- Bismuth: CBS: Colloidal Bismuth Subcitrate; BSS: Bismuth Subsalicylate (Pepto-Bismol).
- Prostaglandin analogs: Misoprostol 100-200
mg (Cytotec).
- Kháng acid (Antacids): Mylanta I (Al hydroxide 200mg, Mg hydroxide 200, Simethicon 20), Mylanta II (Al hydroxide 400mg, Mg hydroxide 400, Simethicon 30), Maalox (Al hydroxide 400mg, Mg hydroxide 400), Maalox plus (Al hydroxide 200mg, Mg hydroxide 200, Simethicon 25) Tums (Ca carbinate 500).
- Phosphalugel: Aluminum phosphate dạng keo 12,38g/gói 20g.
- Grangel: Aluminum hydroxide 392,2mg, Magnesium hydroxide 600mg, Simethicon 60mg/gói 10ml.
- Barudon: Oxethazaine 20mg (gây tê niêm mạc), Aluminum hydroxide 582mg, Magnesium hydroxide 196mg/gói 10ml.
- Mytolan: Simethicon 133,3mg,Aluminum hydroxide 1515,2mg, Magnesium hydroxide 400,2mg/gói 10ml.
III. Kháng sinh:
Amoxicilline, Clarithromycine, Metronidazole, Tetracyclline.Các thuốc trên thường được phối hợp từng 2 thuốc một.
B. Thuốc phối hợp:
-
Helidac: BSS + Tetracycllin + Metronidazole 4lần/ngày x 2 tuần.
- Prevapac: Lansoprazole + Clarithromycin + Amoxicycllin 2 lần/ngày x 2 tuần.
C. Khác:
- Tỷ lệ nhiễm HP:
+ Loét tá tràng: 30-60% (tài liệu khác 90%).
+ Loét dạ dày: 70-80%.
- Tỷ lệ điều trị tiệt căn HP:
+ Phác đồ OAC (Lansoprazol + A + C 86-92%; Omeprazole + A + C 86-91%), OMC 87-91%, OC 70-80%, RBC + C 82-86%, BSS + M + T 86-90%.
- Tỷ lệ loét dạ dày 6-15% (tài liệu khác 15-30%).
- Tỷ lệ loét dạ dày do NSAIDs là 10-20%; loét tá tràng 2-5%.
- Tỷ lệ hội chứng Zollinger-Ellison (Gastrinoma) <1 span="span">
- Viêm thực quản trào ngược (Reflux esopgagitis), bệnh dạ dày – thực quản trào ngược (GERD: Gastroesophageal Reflux Disease).
---------------------Xét Nghiệm Chẩn Đoán Nhiễm Helicobacter pylori

I-GIỚI THIỆU

Các xét nghiệm chẩn đoán Helicobacter pylori được chia thành 2 nhóm: xâm lấn và không xâm lấn, dựa trên sự cần thiết phải nội soi hay không.

Các kỹ thuật có thể là trực tiếp (nuôi cấy, soi kính hiển vi tìm vi khuẩn) hoặc gián tiếp (sử dụng urease hoặc việc đáp ứng kháng thể).

Việc lựa chọn xét nghiệm nào phụ thuộc vào các vấn đề như chi phí, tính sẵn có của xét nghiệm, tình trạng lâm sàng của bệnh nhân, tỷ lệ mắc bệnh trong dân số, xác suất nhiễm vi khuẩn trước khi kiểm tra, và các yếu tố khác như việc đã sử dụng các thuốc ức chế bơm proton hoặc kháng sinh hay chưa vì chúng có thể ảnh hưởng nhất định đến kết quả xét nghiệm.

Bài viết này xin được trình bày những chỉ định và phương tiện thích hợp để xét nghiệm tầm soát H. pylori đồng thời bàn luận riêng rẽ thêm về mỗi xét nghiệm.

II-KHI NÀO CẦN XÉT NGHIỆM H. PYLORI?

Cần xem xét kiểm tra H. pylori ở một số tình huống lâm sàng. Xét nghiệm chẩn đoán H. pylori được Viện Sức khỏe Quốc gia Mỹ (NIH) khuyến nghị lần đầu tiên vào năm 1994. Các hướng dẫn gần đây hơn đã được European Helicobacter Study Group (EHSG) công bố năm 2006, và American College of Gastroenterology (ACG) năm 2007.

Các khuyến nghị của American College of Gastroenterology (ACG)

Các hướng dẫn của ACG bao gồm:

+Xét nghiệm H. pylori chỉ được thực hiện chỉ khi có kế hoạch điều trị các trường hợp dương tính
+Ở những bệnh nhân lymphoma MALT dạ dày,
+Bệnh loét dạ dày tá tràng đang hoạt động, hoặc có
+Tiền sử loét dạ dày tá tràng

Chiến lược xét nghiệm và điều trị H. pylori (nếu kết quả dương tính) là một chiến lược quản lý đã được chứng minh là hiệu quả đối với những bệnh nhân dưới 55 tuổi, khó tiêu, đồng thời không có các "dấu hiệu báo động" (như chảy máu, thiếu máu, ăn mau no, sút cân không giải thích được, nuốt khó ngày càng tăng, nuốt đau, nôn mửa tái diễn, tiền sử gia đình có người bị ung thư tiêu hóa, có tiền sử ung thư thực quản dạ dày.
Quyết định sử dụng xét nghiệm nào phụ thuộc rất nhiều vào tình trạng bệnh nhân có cần thiết đánh giá bằng nội soi đường tiêu hóa trên hay không, những điểm mạnh, điểm yếu, và chi phí của từng xét nghiệm

Loét tiêu hóa- H. pylori là một nguyên nhân thường gặp gây viêm loét dạ dày và tá tràng.

Loét tá tràng không biến chứng - H. pylori hiện diện trong phần lớn các trường hợp loét tá tràng không biến chứng, đặc biệt là khi đã loại trừ các thuốc kháng viêm không steroid. Do đó, người ta đã lập luận rằng không có phương pháp chẩn đoán nào có tính hiệu quả/chi phí ở những bệnh nhân này và rằng nên điều trị dựa trên kinh nghiệm.
Tuy nhiên, có đến 27% bệnh nhân loét tá tràng qua nội soi đã được chứng minh là âm tính với H. pylori. Những bệnh nhân này có vẻ như có kết cục xấu hơn đáng kể, đặc biệt là sau khi được điều trị nhiễm vi khuẩn theo kinh nghiệm.

Như vậy, cần có bằng chứng nhiễm khuẩn. Tại thời điểm nội soi, có thể thiết lập chẩn đoán bằng:

+xét nghiệm sinh thiết urease nếu bệnh nhân chưa dùng thuốc ức chế bơm proton hoặc những thuốc khác có thể ảnh hưởng đến kết quả,
+hoặc với sinh thiết để kiểm tra mô học.

Loét dạ dày không biến chứng - H. pylori hiện diện trong phần lớn các trường hợp loét không biến chứng. Tuy nhiên, loét dạ dày H. pylori âm tính ngày càng gặp nhiều hơn. Việc sử dụng thuốc kháng viêm không steroid có thể góp phần vào tình trạng này

Xét nghiệm nhiễm H. pylori cần được thực hiện trước khi điều trị kháng sinh. Sinh thiết ở các bờ và đáy của ổ loét để loại trừ ung thư dạ dày. Ngoài ra nên sinh thiết ít nhất ở hai vị trí khác nhau trên niêm mạc dạ dày, cách xa ổ loét để tìm H. pylori. Ngay cả khi sinh thiết không cho thấy có bệnh ác tính, cũng nên xác nhận lành loét dạ dày ở hầu hết các trường hợp trong vòng từ hai đến ba tháng.

Loét dạ dày tá tràng mới xuất huyết gần đây - Bệnh nhân có xuất huyết do loét dạ dày tá tràng nên được kiểm tra H. pylori. Tuy nhiên, sự chính xác của các phương pháp khác nhau trong phát hiện H. pylori có thể bị ảnh hưởng nếu mới xuất huyết gần đây. Một phân tích meta các nghiên cứu đánh giá đặc điểm xét nghiệm chẩn đoán trong nhóm bệnh nhân này đưa ra những kết luận sau đây:

Độ nhạy thấp nhưng độ đặc hiệu cao đối với các phương pháp dựa trên sinh thiết như:
+xét nghiệm urease nhanh (67 và 93 %, tương ứng),
+mô học (70 và 90 %),
+nuôi cấy (45 và 95 %)

Đối với các xét nghiệm không xâm lấn, độ nhạy và độ đặc hiệu là
+93 và 92 % cho xét nghiệm ure C (13) hơi thở
+87 và 70 % cho xét nghiệm kháng nguyên phân
+88 và 69 % cho xét nghiệm huyết thanh

Khuyến nghị làm sinh thiết niêm mạc dạ dày vào thời điểm nội soi ban đầu, trừ trường hợp không thực tế hoặc khó thực hiện, như khi dạ dày chứa đầy máu. Tuy nhiên, vẫn chưa loại trừ được H. pylori khi kết quả âm tính và nên xác nhận lại bằng cách thực hiện thêm một xét nghiệm khác (tốt nhất là xét nghiệm ure hơi thở).

Nếu không thực hiện được sinh thiết niêm mạc dạ dày, nên ưu tiên dùng xét nghiệm urea hơi thở. Kết quả âm tính cần được xác nhận bằng một thử nghiệm khác.

Tiền sử loét dạ dày tá tràng - Cần xét nghiệm kiểm tra ở những bệnh nhân có tiền sử loét dạ dày tá tràng đã xác nhận bằng nội soi hoặc X quang, nhưng chưa được điều trị tiệt trừ H. pylori. Điều trị H. pylori nếu xét nghiệm dương tính. Huyết thanh chẩn đoán, tìm kháng nguyên trong phân, xét nghiệm ure hơi thở là tiếp cận hợp lý ở những bệnh nhân này.

Không có triệu chứng ở bệnh nhân và gia đình - Thường không xét nghiệm nhiễm H. pylori ở những bệnh nhân không triệu chứng và tiền sử loét dạ dày tá tràng. Trường hợp ngoại lệ ở những bệnh nhân có tiền sử gia đình hoặc lo ngại ung thư dạ dày, đặc biệt những người gốc Đông Á, Trung Mỹ, hoặc Đông Âu, thường có tỷ lệ mắc ung thư dạ dày cao hơn. Vấn đề các thành viên khác không triệu chứng trong gia đình bệnh nhân có cần được xét nghiệm H pylori hay không (để giảm nguy cơ tái nhiễm bệnh nhân) còn chưa rõ ràng.

Điều trị PPI dài hạn - Một nghiên cứu trước đây cho rằng bệnh nhân nhiễm H. pylori điều trị duy trì bằng thuốc ức chế bơm proton (PPI) có nguy cơ phát triển viêm teo dạ dày. Tuy nhiên, nghiên cứu này đã bị chỉ trích do một số hạn chế về phương pháp luận, và các kết quả đã không được xác nhận trong những báo cáo khác. Ngoài ra, một nghiên cứu của FDA thực hiện vào năm 1996 kết luận rằng, dựa trên các thử nghiệm ở Mỹ, không có bằng chứng thuyết phục về sự kết hợp này.

Dựa trên những quan sát này, xét nghiệm và điều trị H. pylori không được khuyến cáo chỉ đơn thuần để đề phòng viêm teo dạ dày ở những bệnh nhân điều trị PPI lâu dài.

Khó tiêu chức năng - Các vấn đề liên quan đến kiểm tra H. pylori đối với khó tiêu chức năng sẽ được trình bày riêng.

Chỉ định khác - Một số trường hợp khác có thể được xem xét xét nghiệm H. pylori:

+Trước khi điều trị bằng NSAID, đặc biệt ở những bệnh nhân dự kiến sẽ được dùng NSAID (bao gồm cả aspirin): liên tục trong nhiều tuần, nhiều tháng, hoặc nhiều năm
+Ở bệnh nhân ban xuất huyết giảm tiểu cầu tự phát (idiopathic thrombocytopenic purpura), do số lượng tiểu cầu có thể cải thiện ở những người được điều trị tiệt trừ H. pylori
+Ở những bệnh nhân thiếu máu thiếu sắt không giải thích được

III-NỘI SOI KIỂM TRA

Chẩn đoán H. pylori thường được thực hiện trong khi nội soi bằng một trong ba phương pháp:
+kiểm tra urease sinh thiết,
+mô học, và, ít phổ biến hơn là
+nuôi cấy vi khuẩn.
Việc lựa chọn các xét nghiệm này phụ thuộc vào bối cảnh lâm sàng, tính chính xác của các xét nghiệm, và chi phí tương đối.
Nội soi không được chỉ định đơn thuần với mục đích kiểm tra tình trạng nhiễm H. pylori.

Các khuyến nghị tổng thể đã được American College of Gastroenterology đề xuất:

Khi nội soi được chỉ định, xét nghiệm lựa chọn đầu tiên là xét nghiệm urease trên sinh thiết hang vị.
Xét nghiệm mô học dạ dày thường quy nhìn chung là không cần thiết và tốn kém.
Nếu xét nghiệm urease sinh thiết âm tính, có thể chẩn đoán lây nhiễm H. pylori bằng các phương pháp mô học, nuôi cấy, xét nghiệm urea hơi thở, hoặc thử nghiệm kháng nguyên phân.
Huyết thanh chẩn đoán có thể được sử dụng nhưng thường không đáng tin cậy trong phân biệt giữa nhiễm trùng đang hoạt động và nhiễm trong quá khứ. Hơn nữa, giá trị tiên đoán dương tính của huyết thanh chẩn đoán khá kém ở những nơi có tỷ lệ nhiễm H. pylori thấp. Do đó, xét nghiệm phân hoặc xét nghiệm urea hơi thở là lựa chọn thay thế tốt hơn cho huyết thanh chẩn đoán. Xét nghiệm urease sinh thiết có độ nhạy cảm giảm ở những bệnh nhân dùng PPI và ở những bệnh nhân gần đây có xuất huyết tiêu hóa hoạt động.

Xét nghiệm urease sinh thiết - sinh thiết hang vị kiểm tra hoạt động urease bằng cách sử dụng một số kỹ thuật có độ chẩn đoán chính xác tương đương (các bộ dụng cụ có sẵn bao gồm CLOtest, PyloriTek, và Hp nhanh). Một trong những phương tiện được sử dụng rộng rãi là CLOtest (Campylobacter-Like Organism, Ballard Medical, Draper, UT). Với kỹ thuật này, một hoặc hai miếng mô sinh thiết sẽ được đặt trong mẩu thạch agar có chứa urê và chất chỉ thị màu độ pH. Urease sẽ tách urê để giải phóng amoniac, tạo ra pH kiềm làm thay đổi màu sắc mẩu thạch. CLOtest có thể dương tính sau một giờ, nhưng khuyến nghị nên đọc kết quả cuối cùng 24 giờ sau. Một nghiên cứu cho thấy khi tăng số mẫu mô để thực hiện CLOtest từ một lên bốn sẽ giúp gia tăng độ nhạy của xét nghiệm.

Đã có những đề nghị hâm nóng các mẩu gel xét nghiệm để tăng tốc độ kết quả. Tuy nhiên, khảo sát thử nghiệm so sánh các kỹ thuật kiểm tra cho thấy khả năng tiết kiệm thời gian khá thấp.
Xét nghiệm urease sinh thiết ít tốn kém hơn so với kiểm tra mô học. Có thể sinh thiết thêm để làm giải phẫu bệnh. Lựa chọn thay thế khi khả năng nhiễm H. pylori là rất cao bao gồm huyết thanh chẩn đoán, xét nghiệm urease hơi thở, hoặc thử nghiệm phân. Các xét nghiệm này cũng có thể được sử dụng để giúp thiết lập chẩn đoán ở bệnh nhân đã xét nghiệm urease sinh thiết âm tính.

Độ nhạy của xét nghiệm urease sinh thiết khoảng 90-95 %, và độ đặc hiệu là 95-100 %. Vì vậy, tỉ lệ dương tính giả là rất ít. Tuy nhiên, kết quả âm tính giả có thể xảy ra ở những bệnh nhân xuất huyết tiêu hóa gần đây hoặc đã có sử dụng PPI, đối kháng H2, thuốc kháng sinh, hoặc hợp chất chứa bitmut. Lấy nhiều mẫu mô từ hang vị và đáy vị có thể giúp tăng độ nhạy của xét nghiệm.

Như vậy, một thử nghiệm urease âm tính ở những bệnh nhân đang dùng liệu pháp kháng tiết hoặc bất kỳ loại thuốc nào đã được đề cập trên đây sẽ không loại trừ khả năng nhiễm H. pylori. Điều trị kháng tiết cũng có thể làm giảm số lượng vi khuẩn phát hiện bằng mô học. Xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán có lẽ sẽ là chiến lược tốt nhất cho những bệnh nhân mà khả năng lây nhiễm vẫn còn cao, nhưng đã dùng các loại thuốc nói trên trước khi nội soi và xét nghiệm urease sinh thiết âm tính. Nên ngưng điều trị kháng tiết trước khi nội soi. Thời gian ngưng thuốc trước nội soi chưa được xác định rõ, tuy rằng bốn tuần có lẽ là hợp lý.

Thử nghiệm urease nhanh - Vì mong muốn biết sớm tình trạng nhiễm H. pylori của một bệnh nhân trước họ khi ra khỏi phòng nội soi, bộ xét nghiệm chuyên dụng ure màng đã được thiết kế đặc biệt để cho ra kết quả trong vòng một giờ (PyloriTek, Serim nghiên cứu, Elkhart, IN, và Helicocheck , Viện Miễn dịch học Mỹ, Công ty TNHH Tochigi, Nhật Bản). Với những kit thử nghiệm urease nhanh (RUT) này, mẫu mô sinh thiết được kẹp giữa một dải thuốc chỉ thị pH và một pad chứa urê. Độ nhạy và độ đặc hiệu của xét nghiệm 1 giờ có thể tương đương với các xét nghiệm gel agar 24 giờ (89-98 % và 89-93 %, tương ứng) và tốt hơn so với xét nghiệm gel agar đọc kết quả sau một giờ.

Ngoài những lợi điểm về thời gian, các kit thử nghiệm urease nhanh (RUT) đã không thể hiện ưu thế nào so với các kỹ thuật ít tốn kém hơn. Kết quả của chúng cũng bị ảnh hưởng khi sử dụng thuốc kháng tiết và thuốc kháng sinh.

Mô học - sinh thiết dạ dày có thể hữu ích trong việc đưa ra các chẩn đoán ban đầu về nhiễm H. pylori. Nó cũng cung cấp thêm thông tin về sự hiện diện của viêm dạ dày, về chuyển sản ruột và phát hiện mô lymphoid kết hợp với niêm mạc (mucosa-associated lymphoid tissue =MALT).

Khuyến nghị lấy vài mẫu sinh thiết từ hang vị và thân vị dạ dày, đặc biệt là khi cần tìm kiếm bằng chứng viêm teo dạ dày đa ổ và/hoặc chuyển sản ruột. chi phí có thể giảm thiểu nếu tất cả các mẫu được đưa vào cùng một dụng cụ chuyên chở, mặc dù cách này không được các nhà giải phẫu bệnh học khuyến khích.

Các vấn đề về kiểm tra mô học bao gồm:

Mật độ H. pylori có thể khác nhau tùy vị trí, có thể dẫn sai sót trong việc lấy mẫu, biến thiên tùy theo người đọc kết quả. Độ nhạy của xét nghiệm mô học giảm ở bệnh nhân dùng liệu pháp kháng tiết, nhưng vẫn còn cao hơn so với xét nghiệm urease sinh thiết

Độ chính xác của chẩn đoán nhiễm H. pylori mô học có thể được cải thiện bằng cách sử dụng phẩm nhuộm đặc biệt như Giemsa hoặc nhuộm miễn dịch đặc hiệu.

Chải tế bào – chải tế bào ít khi được sử dụng trong thực hành lâm sàng, nhưng có thể được xem xét ở những bệnh nhân rối loạn đông máu khiến việc kẹp sinh thiết không an toàn. Các mẫu chải tế bào sẽ được kiểm tra bằng kỹ thuật nhuộm Gram hoặc nhuộm đặc biệt nếu kết quả nhuộm Gram là không thuyết phục. Chải tế bào có độ nhạy là 95-98 % và độ đặc hiệu là 96 %.

Cấy vi khuẩn và kháng sinh đồ - H. pylori rất khó cấy, nhưng các kỹ thuật đang được cải thiện. Mặc dù sự nhạy cảm in vivo có thể không luôn dự báo cho phản ứng in vivo, những lo ngại về kháng metronidazole và macrolid đang gia tăng và một định nghĩa chuẩn của việc đề kháng kháng sinh đang được thành lập.

Tỷ lệ kháng metronidazole thay đổi tùy theo vùng địa lý và được ước tính khoảng 80-90 % ở các nước nhiệt đới, 50 % ở một số nước châu Âu. Tỷ lệ kháng macrolid lúc đầu là 4 -12 %

Tỷ lệ kháng nhiều thuốc kháng sinh khác nhau được ước tính trong một nghiên cứu bao gồm 3400 mẫu H. pylori phân lập từ 17 thử nghiệm điều trị kháng sinh thực hiện vào năm 1993 đến 1999 trên toàn Hoa Kỳ. Kháng metronidazole gặp ở 22-39 % các chủng phân lập (tùy thuộc vào phương pháp sử dụng để kiểm tra kháng thuốc), đề kháng clarithromycin gặp ở 11-12 % mẫu. Hiếm gặp mô học đề kháng với amoxicillin hoặc tetracycline. Kháng metronidazole gặp ở phụ nữ nhiều hơn ở nam giới (35 so với 23 %). Đề kháng kháng sinh tăng dần lên đến tuổi 70, sau đó giảm đáng kể. Chưa quan sát thấy có khác biệt về đề kháng kháng sinh theo từng vùng miền.

Hiện tại không khuyến khích cấy H. pylori thường quy. Tuy nhiên, việc cấy vi khuẩn và làm kháng sinh đồ có thể hữu ích cho những bệnh nhân kháng trị, do tỉ lệ kháng thuốc là rất cao trong nhóm này. Nên sinh thiết để cấy vi khuẩn trước khi các kẹp bị nhiễm formalin. Mẫu mô cần được đặt vào dụng cụ chuyên chở với một vài giọt nước muối. Điều này giúp cấy mẫu và thử nghiệm độ nhạy tại chỗ hoặc vận chuyển đến một trung tâm khác.

Phản ứng chuỗi polymerase với thời gian thực (RT-PCR) và cũng có thể được sử dụng để phát hiện Helicobacter trong các mẫu sinh thiết dạ dày, nhưng ít được sử dụng trong thực hành lâm sàng.

IV-XÉT NGHIỆM KIỂM TRA KHÔNG XÂM LẤN

Hiện nay, một loạt các xét nghiệm không xâm lấn để chẩn đoán H. pylori đã sẵn có hoặc đang được đánh giá. Bao gồm: xét nghiệm kiểm tra urea hơi thở (UBT), xét nghiệm kháng nguyên phân, và huyết thanh chẩn đoán. Trước kia, kiểm tra sau điều trị chỉ được đề nghị cho những bệnh nhân loét tiêu hóa phức tạp hoặc có các triệu chứng dai dẳng, hay tái phát. Tuy nhiên, do chi phí các xét nghiệm không xâm lấn về phân và urea hơi thở đã giảm và do đề kháng kháng sinh đang tăng lên, hiện tại việc xác nhận đã tiệt trừ H. pylori ở tất cả các bệnh nhân 4-6 tuần sau điều trị, là hợp lý.

Kiểm tra urê hơi thở - Xét nghiệm urê hơi thở dựa trên sự thủy phân urê của H. pylori để sản xuất ra khí CO2 và ammonia. Một đồng vị carbon có đánh dấu được cho uống; CO2 đánh dấu giải phóng bởi H. pylori có thể được phát hiện trong mẫu hơi thở.

Hai xét nghiệm urea hơi thở (UBT) đã được FDA chấp thuận: các xét nghiệm 13C không phóng xạ (Meretek, Hãng Dược phẩm Otsuka), và xét nghiệm 14C phóng xạ (Tri-Med, Thiết bị Y Tế Ballard). Cả hai xét nghiệm này đều được thực hiện trong vòng 15 đến 20 phút với chi phí và độ chính xác tương tự.
Một số thầy thuốc ưa dùng xét nghiệm 13C hơn vì nó không sử dụng đồng vị phóng xạ. Liều phóng xạ trong xét nghiệm 14C là tối thiểu (khoảng 1 microCi), tương đương với một ngày tiếp xúc bức xạ nền (background radiation). Tuy liều bức xạ này rất nhỏ, cũng nên tránh sử dụng xét nghiệm 14C ở trẻ nhỏ và phụ nữ mang thai.

Độ nhạy và độ đặc hiệu của UBT khoảng 88-95 % và 95-100, tương ứng. Do đó ít gặp kết quả dương tính giả. Kết quả âm tính giả có thể gặp ở những bệnh nhân đang dùng liệu pháp kháng tiết, bismuth, hoặc kháng sinh. Để giảm kết quả âm tính giả, bệnh nhân nên ngưng thuốc kháng sinh ít nhất bốn tuần và PPI ít nhất hai tuần. Ngoài ra, đối với những bệnh nhân nhập viện vì xuất huyết tiêu hóa trên, phát hiện sớm nhiễm H. pylori có thể rút ngắn thời gian nằm viện do hiệu quả của điều trị. Như vậy, cần xem xét thực hiện ngay UBT khi bệnh nhân đã bắt đầu ăn uống lại được.

Tác động của PPI, có lẽ là do ức chế H. pylori, được nêu lên trong một loạt gồm 93 bệnh nhân nhiễm H. pylori đã được kiểm tra bằng UBT. Điều trị với lansoprazole (30 mg uống một lần mỗi ngày trong 28 ngày) đã đi kèm với kết quả âm tính của xét nghiệm UBT trong 33 % trường hợp. Kiểm tra lại xét nghiệm vào thời điểm 3, 7, và 14 ngày sau khi ngưng lansoprazole cho thấy UBT dương tính trong 91, 97, và 100 %, tương ứng.

Huyết thanh chẩn đoán – Các xét nghiệm huyết thanh sử dụng phương pháp ELISA để phát hiện kháng thể IgG là rẻ tiền và không xâm lấn, rất thích hợp cho thực hành chăm sóc sức khỏe ban đầu. Tuy nhiên, những lo ngại về tính chính xác đã hạn chế việc sử dụng chúng. Các nghiên cứu lớn đã cho thấy độ nhạy cao đồng đều (90-100 %), nhưng độ đặc hiệu thay đổi (76-96 %); độ chính xác vào khoảng 83-98 %.

Xét nghiệm huyết thanh để phát hiện IgG đã được nghiên cứu nhiều nhất và IgG ELISA là xét nghiệm huyết thanh có sẵn để sử dụng trong lâm sàng chủ yếu. Do đó, các hướng dẫn ở Hoa Kỳ và châu Âu chỉ đề cập đến các xét nghiệm về IgG. Một số nghiên cứu cho thấy rằng các kháng thể IgA có thể được phát hiện ở những trường hợp đã âm tính với IgG ELISA.
Tuy nhiên, một số nghiên cứu đã chứng minh rằng nhìn tổng thể thì xét nghiệm IgA ít nhạy cảm và ít đặc hiệu hơn so với xét nghiệm IgG.

Một số phòng thí nghiệm cung cấp xét nghiệm kháng thể IgM, nếu tăng cao sẽ chỉ điểm cho một nhiễm trùng cấp tính. Xét nghiệm IgM không hoặc có vai trò rất ít trong thực hành lâm sàng để chẩn đoán hoặc xử trí tình trạng nhiễm H. pylori. Trước kia, cả ba loại kháng thể được đưa vào các xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán H. pylori, nhưng hiện nay hầu hết các xét nghiệm này chỉ còn dùng các kháng thể IgG mà thôi.

Ở những bệnh nhân trẻ có triệu chứng, trước kia các bộ kit dựa trên huyết thanh được xem là chính xác, rẻ tiền thay thế cho xét nghiệm mô học, phân hoặc xét nghiệm urea hơi thở, nhưng việc sử dụng chúng hiện nay không còn được khuyến nghị, do có độ chính xác thấp hơn so với các xét nghiệm lựa chọn thay thế

Xét nghiệm không chính xác cũng thường gặp ở người cao tuổi và bệnh nhân xơ gan do độ đặc hiệu có thể bị ảnh hưởng. Kết quả là, đối với những đối tượng này, các kỹ thuật khác sẽ được ưa thích hơn.

Các tiếp cận cho những bệnh nhân có xét nghiệm huyết thanh dương tính hoặc âm tính bao gồm:

Đối với một bệnh nhân có loét xác nhận và xác suất nhiễm trùng cao, nên bắt đầu điều trị dựa trên cơ sở huyết thanh dương tính và xem xét xác nhận kết quả huyết thanh âm tính với một xét nghiệm thay thế khác.
Ở bệnh nhân có xác xuất nhiễm trùng thấp, một xét nghiệm huyết thanh âm tính là hữu ích để loại trừ nhiễm trùng.
Một bệnh nhân trẻ với triệu chứng khó tiêu, không có chứng cứ nào về loét tiêu hóa, ở những vùng có tỷ lệ nhiễm H. pylori thấp (như hầu hết các địa phương của Châu Âu và Hoa Kỳ), một xét nghiệm huyết thanh dương tính trong trường hợp này nhiều khả năng là dương tính giả. Do đó, trước khi bắt đầu điều trị, kiểm tra lại bằng xét nghiệm phân hoặc hơi thở để xác nhận kết quả ban đầu là hợp lý.

Chuyển đổi huyết thanh dương tính thành âm tính sau khi điều trị cho thấy đã chữa sạch vi khuẩn. Ví dụ, trong một nghiên cứu, 23 người lớn khỏe mạnh nhiễm H. pylori đã chứng minh bằng sinh thiết dạ dày được xét nghiệm định lượng huyết thanh kháng-H. pylori IgG ở đường cơ sở, sau một tháng, sau ba tháng, và khoảng 18 tháng sau khi hoàn tất điều trị kháng sinh tiệt trừ H. pylori. Theo dõi nội soi sinh thiết cho thấy tiệt trừ H. pylori ở 15 bệnh nhân. Sự tương quan giữa các kết quả huyết thanh với việc tiệt trừ H. pylori cho thấy các điểm sau đây:

Ở bệnh nhân đã được tiệt trừ, chuẩn độ H. pylori giảm khoảng 50 phần trăm ở 3 tháng. Ở 18 tháng, 9/15 bệnh nhân (60 %) được tiệt trừ đã không phát hiện được chuẩn độ kháng thể. Chuyển đổi huyết thanh để phát hiện tiệt trừ với những mức độ phát hiện và không phát hiện được vào thời điểm 18 tháng sau điều trị có độ nhạy và độ chuyên biệt tương ứng là 60 và 100 %.(Khanh)

Vì vậy, chẩn đoán huyết thanh sau điều trị kháng sinh tiệt trừ H. pylori có thể là hữu ích nhất đối với các bệnh nhân cần xác nhận xoá H. pylori từ một năm trở lên sau điều trị. Tuy nhiên, điều này hiếm khi được thực hiện trong thực hành lâm sàng, ngoại trừ trường hợp những bệnh nhân không thể ngưng điều trị kháng tiết, một tình huống mà thử nghiệm urê hơi thở hoặc kháng nguyên phân ít nhạy cảm.

Các phương pháp định lượng ELISA thường được sử dụng trong các nghiên cứu. Nó cho phép xác định chuẩn độ của IgG để so sánh với các mẫu huyết thanh ở giai đoạn cấp tính và hồi phục (3-6 tháng hoặc lâu hơn) đồng thời có thể xác nhận tình trạng tiệt trừ vi khuẩn.

Xét nghiệm kháng nguyên phân- Hiện diện của H. pylori trong phân người bệnh đã đưa đến sự phát triển các xét nghiệm phân. Xét nghiệm miễn dịch enzyme (do công ty Meridien Diagnostics sản xuất) là phương pháp hợp lý để chẩn đoán H. pylori ở giai đoạn đầu. Độ chính xác của xét nghiệm được đánh giá trong một nghiên cứu liên quan đến 270 bệnh nhân trong đó chẩn đoán H. pylori được thiết lập bằng nội soi và UBT. Độ nhạy và độ đặc hiệu của thử nghiệm là 94 và 86 %, tương ứng. Kết quả tương tự cũng tìm thấy trong một nghiên cứu so sánh liên quan đến 272 bệnh nhân bị nhiễm vi khuẩn (độ nhạy 94 %, độ đặc hiệu 92 %).

Các xét nghiệm kháng nguyên phân cũng hữu ích để xác định đã tiệt trừ đã thành công, mặc dù các dữ liệu chưa đồng nhất và khoảng thời gian sớm nhất để có thể được thực hiện xét nghiệm chưa rõ ràng. Trong nghiên cứu mô tả ở trên, độ nhạy và độ đặc hiệu để xác định tiệt khuẩn H. pylori sau bốn tuần là 90 và 95 %, tương ứng. Những báo cáo khác cũng đạt được kết quả tương tự đối với các bệnh nhân xét nghiệm lại bốn tuần sau khi hoàn thành điều trị. Các thử nghiệm có thể dự báo tiệt trừ vi khuẩn sớm từ bảy ngày (dương tính và âm tính là 100 và 91 % tương ứng, ở một loạt 84 bệnh nhân).

Tuy nhiên, những nghiên cứu khác đã ghi nhận một độ chính xác dự báo thấp hơn. Trong một nghiên cứu, các xét nghiệm đã cho kết quả dương tính giả ở 13/41 bệnh nhân (32 %) Họ đã có bằng chứng tiệt trừ H. pylori bằng cách nội soi năm tuần sau khi bắt đầu liệu trình. Kết quả dương tính giả cũng đã được chứng minh ở những bệnh nhân xuất huyết cấp tính đường tiêu hóa trên, có thể do phản ứng chéo với các thành phần máu. Một báo cáo khác ước tính rằng các xét nghiệm kháng nguyên phân có thể kết hợp với tỷ lệ âm tính giả lên đến 20 % khi được thực hiện từ 4-6 tuần sau điều trị tiệt trừ

Xét nghiệm phân cũng có những hạn chế của các xét nghiệm dùng urease để phát hiện vi khuẩn. Điều này đã được mô tả trong một nghiên cứu bao gồm 60 bệnh nhân nhiễm trùng đã được chứng minh qua sinh thiết, trong đó việc sử dụng bismuth hoặc lansoprazole đưa đến xét nghiệm phân âm tính giả (lên đến 25 % với lansoprazole và 15 % với bitmut). Ngược lại, kết quả âm tính giả không xảy ra khi dùng ranitidine. Mặc dù các tỷ lệ này thấp hơn so với UBT thực hiện trong những điều kiện tương tự, các xét nghiệm phân cũng đòi hỏi sự thận trọng khi sử dụng trong chẩn đoán ban đầu nhiễm H. pylori và xác nhận tiệt trừ sau điều trị.

Các xét nghiệm kháng nguyên mới hơn- Các xét nghiệm kháng nguyên phân kể trên được thực hiện tại phòng thí nghiệm, khiến việc chẩn đoán bị chậm trễ. Hiện đã có một xét nghiệm nhanh tìm kháng nguyên H. pylori trong phân thực hiện trong một lần thăm khám (Meridian Diagnostics, Inc, Cincinnati, OH). Báo cáo sơ bộ so sánh kết quả với các tiêu chuẩn tham chiếu cho thấy độ nhạy và độ đặc hiệu của xét nghiệm này là 76 và 98 %, tương ứng.

Một xét nghiệm phân kháng nguyên đơn dòng cũng đã được phát triển (ngược lại với các xét nghiệm mô tả ở trên sử dụng các kháng thể đa dòng polyclonal đối với H. pylori). Phân tích meta 22 nghiên cứu đánh giá hiệu quả cho thấy nó có thể có độ nhạy cao hơn so với các xét nghiệm polyclonal, đặc biệt là ở các thiết lập sau điều trị. Độ nhạy ước tính chung là 94 phần trăm (95% CI 93-95 %) và độ đặc hiệu là 97 % (95% CI 96-98 %). Trong 8 nghiên cứu đánh giá cả hai loại xét nghiệm ở các thiết lập sau điều trị, độ nhạy của kỹ thuật đơn dòng cao hơn (91 so với 76 %).

Một nghiên cứu châu Âu so sánh ba xét nghiệm miễn dịch enzyme (EIA) với ba xét nghiệm sắc ký miễn dịch đơn dòng (monoclonal immunochromatographic) trong chẩn đoán nhiễm và xác định tình trạng sau khi đã điều trị tiệt trừ H. pylori. Độ nhạy thay đổi trong khoảng 87-95 %, độ đặc hiệu khoảng 67-83 phần trăm cho các xét nghiệm EIA, và độ nhạy 53-84 % , đặc hiệu 68-94 % cho các xét nghiệm đơn dòng, chứng tỏ có sự biến đổi về kết quả giữa các xét nghiệm và các xét nghiệm phân có thể ít hiệu quả hơn trên thực tế lâm sàng.

Phản ứng chuỗi polymerase - Phản ứng chuỗi polymerase (PCR) là không thực tế cho việc chẩn đoán thường quy H. pylori, tuy nhiên, nó có thể có ích trong việc phát hiện các vi khuẩn này khi khó nuôi cấy bình thường, ví dụ như việc thử nghiệm trên phân hoặc nước uống. Xét nghiệm PCR có thể được thực hiện trên mô dạ dày.

Xét nghiệm nước bọt - Các khoang miệng có thể là hồ chứa H. pylori. Cả nước bọt lẫn mảng bám răng có thể chứa H. pylori như đã được chứng minh bằng xét nghiệm huyết thanh và PCR. Mặc dù có thể tránh được việc tiêm chích tĩnh mạch (đặc biệt ở trẻ em), các nghiên cứu đã cho thấy xét nghiệm IgG nước bọt không nhạy cảm như các xét nghiệm mô học hoặc xét nghiệm huyết thanh. Ngoài ra, do đã có sẵn các xét nghiệm hơi thở và xét nghiệm phân nên xét nghiệm nước bọt không còn được sử dụng.

Xét nghiệm nước tiểu - Một xét nghiệm miễn dịch liên kết enzyme (enzyme-linked immunosorbent assay=ELISA) dựa trên nước tiểu cũng đã được phát triển, với độ nhạy, độ đặc hiệu được báo cáo là 96 và 79 phần trăm, tương ứng khi so sánh với xét nghiệm mô học, 98 và 96 phần trăm, tương ứng khi so sánh với xét nghiệm kháng thể huyết thanh. Mặc dù có những nghiên cứu khác được báo cáo sau đó , xét nghiệm ELISA nước tiểu hiện không còn được sử dụng để chẩn đoán nhiễm H. pylori nữa.

Xét nghiệm máu 13C-urea - Xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán sử dụng một thử nghiệm 13C-urea (Ez-HBT, Metabolic Solutions Inc, Nashua, NH) đã được Cục Quản lý dược và thực phẩm Mỹ phê duyệt như một công cụ không xâm lấn để chẩn đoán nhiễm H. pylori, nhưng hiếm khi được sử dụng trong thực hành lâm sàng. Thử nghiệm này được thực hiện bằng cách đo hai mẫu huyết thanh, một mẫu trước và mẫu thứ nhì 60 phút sau khi ăn một bữa ăn giàu 13C-urea. Xét nghiệm này có độ nhạy được báo cáo là 92 đến 100 % và độ đặc hiệu 96-97 %


V-XÁC NHẬN TIỆT TRỪ H. PYLORI

Xác nhận tiệt trừ nên được thực hiện do hiện đã có sẵn các xét nghiệm chính xác, tương đối rẻ tiền, và không xâm lấn (xét nghiệm phân và hơi thở). Xác nhận tiệt trừ đã được một hội nghị đồng thuận ở Châu Âu khuyến nghị. Một hướng dẫn năm 2007 của Trường Bộ Môn Tiêu Hóa Mỹ (ACG) khuyến cáo nên xác nhận tiệt trừ trong các trường hợp sau đây:

+Bất kỳ bệnh nhân nào có loét tiêu hóa kết hợp với nhiễm H. pylori.
+Bệnh nhân có các triệu chứng khó tiêu kéo dài dù đã được tiến hành xét nghiệm kiểm tra và điều trị (test-and-treat strategy).
+Bệnh nhân bị lymphoma MALT kết hợp nhiễm H. pylori
+Những bệnh nhân đã phẫu thuật ung thư dạ dày sớm


Các khuyến nghị trên đây chủ yếu dựa trên sự nhất trí đồng thuận của các chuyên gia.

Xét nghiệm kiểm tra urê hơi thở thực hiện ít nhất bốn tuần sau điều trị đã được đánh giá là xét nghiệm chọn lựa để xác nhận tiệt trừ vi khuẩn.
Xét nghiệm antigen phân là xét nghiệm thay thế sẵn có nhưng lại ít chính xác hơn. Không nên thực hiện xét nghiệm antigen phân sớm hơn 4 đến 6 tuần sau điều trị tiệt trừ do hay gặp các kết quả dương tính giả lẫn âm tính giả trong giai đoạn này.


Albatros

Tham khảo:
1-Uptodate 19.1/ 2011
2-Emedicine-Medscape 2011
3-Current Medical Diagnosis and Treatment 2011
4-Tài liệu của European Helicobacter Study Group (EHSG), 2006
5-Tài liệu của American College of Gastroenterology (ACG), 2007.
   __________________
Nguồn:

Thứ Tư, 18 tháng 4, 2012

Các thuốc điều trị viêm loét dạ dày

Trong gần 30 chục năm trở lại đây, đã xuất hiện thuốc điều trị loét dạ dày tá tràng ngày càng nhiều, ngày càng hiệu quả hơn. Nhờ đó mà quan điểm và phương pháp điều trị đã thay đổi hẳn, từ một bệnh chủ yếu điều trị bằng ngoại khoa, đã trở thành một bệnh chủ yếu điều trị bằng nội khoa. 
Có thể nói, đây là một bước ngoặt, một tiến bộ rất lớn trong điều trị loét dạ dày tá tràng. Những trường hợp loét dạ dày tá tràng phải mổ ngày càng ít dần đi, chỉ dành cho những trường hợp loét có biến chứng như chảy máu, thủng hay hẹp môn vị. Chúng ta hy vọng rằng, ngay cả những trường hợp có biến chứng này trong tương lai sẽ ngày càng ít đi và tiến tới không còn nữa, nếu bệnh loét được phát hiện sớm, điều trị kịp thời bằng những thuốc đầy hiệu quả như ngày nay.untitled.jpg
Tính hiệu quả cao của những thuốc đó, cộng thêm sự hiểu biết ngày càng sâu hơn về vi khuẩn Helicobacter Pylory (H.P), nguyên nhân chính gây nên viêm loét dạ dày, sẽ làm cho hiệu quả điều trị nội khoa bệnh loét đạt đến đỉnh cao ngoài sức tưởng tượng. Biện pháp phẫu thuật chỉ còn để dàng cho những trường hợp rất hãn hữu, ngoại lệ mà thôi. Có thể nói, với sự xuất hiện của thuốc cimetidin đầu tiên, đã mở ra một thời đại mới trong điều trị hết sức hiệu quả bệnh loét dạ dày tá tràng, chẳng khác nào sự xuất hiện của Penicilline, đã mở ra một kỷ nguyên mới của kháng sinh điều trị các bệnh nhiễm trùng.
Nếu kể tên các biệt dược thuốc chống viêm loét thì rất nhiều, không sao kể hết. Tuy nhiên, chúng có thể được xếp vào các nhóm dưới đây:

I. Các thuốc chống acide chlorhydrique:
Chúng trung hòa ion H của HCL, làm cho pH tăng trên 3, đặc biệt làm thay đổi tính acide (khả năng gây loét) trong khi pH không thay đổi nhiều, khả năng này gọi là khả năng đệm.
Có hai loại thuốc chống acide:
1. Thuốc chống acide ion (-) (anion) tác dụng trung hòa nhanh, mạnh nhưng không có khả năng đệm. Ví dụ; Cacbonate Canxi, Natri, Cacbonate monosodique vv... Hiện nay ít dùng trong các trường hợp viêm cấp, hoặc rối loạn cơ năng dạ dày, chỉ dùng trong 1 hoặc 2 ngày.
2. Thuốc chống acide ion (+) (cation): Các thuốc này có khả năng đệm tốt. Đó là các muối của Aluminium (Phosphate, Trisilicate, Hydroxyde), ví dụ: Maalox, Polisilane gel, Phossphalugel, Gasterine, Barudon... Trong Barudon có chứa Hydroxyde, Aluminium, Magnesium, và oxthazaine,  oxthazaine có tác dụng làm tê tại chỗ như Lidocaine nhưng mạnh hơn, an toàn hơn. Loại thuốc này cần uống nhiều lần trong ngày để duy trì pH luôn luôn trên 3 - 3,5 dùng sau khi ăn, không được dùng trước ăn, sẽ gây tác dụng ngược lại. Các thuốc này có tác dụng ngăn cản hấp thụ các thuốc khác, do đó thuốc thứ 2 phải uống sau thuốc chống acide ít nhất 2 giờ.
II. Các thuốc tạo màng bọc:
Những thuốc này có khả năng kết dính với dịch nhày dạ dày thành một màng bao bọc niêm mạc dạ dày và đáy ổ loét, tuy nhiên chúng cũng có tác dụng trung hòa acid, nhưng yếu hơn thuốc chống acid, đó là:
Silicate Al (Kaolin, smecta)
Silicate Mg (gastropulgite...)
Bismuth: Subcitrate Bismuth (Trymo) hay CBS.
Ngoài tác dụng tạo màng bọc, nó còn có tác dụng diệt H.P.
Liều lượng: 120mg/lần x 4 lần/ngày, dùng trong 30 ngày, sau đó phải dừng.
Sucralfatre (Ulcar, Keal, Sucrate gel, Sucrabest...): Đó là muối Aluminium của Sucrose octa sulfat. Khả năng gắn với protein của dịch nhày rất chắc, không bị mật phá hủy, ngăn chặn tái hấp thu H+ và kích thích sản xuất prostaglandine, do đó được dùng nhiều hơn.
Liều lượng: 1gr/lần x 3, 4 lần/ngày, dùng trước khi ăn.
prostaglandine: chỉ dùng loại prostaglandine E1 và E2, chúng có các tác dụng như:
  • Chống bài tiết acide: không mạnh.
  • Kích thích tiết nhày và bicacbonate, tăng dòng máu đến dạ dày.
  • Người ta ít dùng prostaglandine trong điều trị loét, mà hay dùng đề phòng loét dạ dày tá tràng khi dùng thuốc chống viêm không Steroide hoặc Aspirine.
Biệt dược: Misoprostol (Cytotec), Enprostol
Liều lượng:
  • 200 mg/lần x 4 lần/ngày hoặc
  • 400 mg/lần x 2 lần/ngày trong khi ăn và trước khi ngủ.
III. Các thuốc chống bài tiết ức chế thụ thể H2:
Cimetidin (Cimet, Tagamet) đưa vào thị trường đầu tiên vào năm 1978, đến nay đã có nhiều thế hệ thuộc nhóm thuốc này, những thế hệ thuốc càng về sau, tác dụng càng mạnh hơn, tác dụng phụ càng ít hơn, do đó liều lượng dùng cũng ít hơn.
Một số thông số dược động học của thuốc anti H2
Tên thuốc Thời gian hấp thu Max (giờ) % hấp thu Thời gian nửa đời T/2 (giờ) Tương tác
Cimetidin 1 - 1,5 63 - 78 1,7 - 2,1 +++
Ranitidine 1 - 3 49 - 65 2,1 - 3,1 +
Nizatidine <2 >90 1 - 2 0
Famotidine 2 - 4 37 - 45 1,5 - 4,5 0
Liều lượng và cách dùng thuốc chống H2
Tên thuốc Khoảng liều Dạng thuốc Cách dùng Ghi chú
Cimetidin 400 - 800mg Viên nén:200, 300, 400mg
Tiêm: 300mg/2ml
Uống một lần vào buổi chiều, tốt hơn uống nhiều lần Tăng men Transaminase, vú to
Ranitidine 150 - 300mg Viên nén: 150 - 300mg
Tiêm: 50mg/2ml
Uống một lần  vào buổi chiều ít hơn cimetidine
Nizatidine 20 - 40mg Viên nén: 10, 20, 30mg
Tiêm: 50mg/2ml
Uống một lần  vào buổi chiều Không
Famotidine 30 - 40mg Viên nén: 20 - 40mg Uống một lần  vào buổi chiều Không
Ghi chú: Coca thuốc trên đây, ngoài tác dụng điều trị loét còn dùng điều trị chứng trào ngược, tăng acide hoặc để dự phòng loét tái phát.
Famotidine có nhiều tên gọi khác nhau: Servipep, Quamatel...
IV. các thuốc ức chế bơm proton:
ức chế men H+/K+ ATPase làm cho tế bào bìa không bơm H+ ra ngoài, nghĩa là không còn tiết dịch HCL nữa. Trong nhóm này có nhiều biệt dược khác nhau:
Lanzoprazole (Lanzor, Ogast, Prevacide...); Omeprazole (Omeprazole, Mopral, Zoltum, Losec...); Pantoprazole (Pantoprazole, Eupantol, Inipomp...); Rabeprazole (Pariet...); Esomeprazole (Inexium, Nexium, Leziole)
Dược động học của một số thuốc
Tên thuốc Thời gian hấp thu Max (giờ) % hấp thu Thời gian nửa đời T/2 (giờ) Tương tác
Omeprazole 60 95 1/2 - 1 ức chế men gan
Lanzoprazole 85 97 1 - 4 Kích thích men gan
Pantoprazole 70 - 80 98 1 - Không
 Liều lượng và cách dùng
Tên thuốc Khoảng liều Dạng thuốc Cách dùng Tương tác
Lanzoprazole 15 - 30 mg Viên nang
15, 30 mg
Uống một lần, 4 - 6 tuần Kích thích men gan +
 
 
Omeprazole
 
20 - 40 mg
 
 
 
40 mg
Viên nang
20, 40 mg
 
 
Tiêm: 40 mg/ống
Uống một lần, 4 - 6 tuần
Trẻ em > 1+ = 1 mg/kg
Không quá 20 mg/ngày
 
Tiêm chậm 5 phút
Không quá 4 ml/phút
Kích thích men gan +++
 
 
Không dùng cho trẻ em
Pantoprazole 40 mg Tiêm: ống/40 mg
Viên nang: 20, 40 mg
Tiêm chậm IV: 2 - 3 phút
Uống một lần, 4 - 8 tuần
 
Rabeprazole 20 mg Viên nén: 10, 20 mg Uống một lần, 4 - 8 tuần  
Esomeprazol 20 - 40 m
Viên nén, viên nang: 20 - 40 mg
Uống một lần, 4 - 8 tuần  
Ghi chú:
  • Ngoài tác dụng chống loét, các thuốc trên còn được dùng trong chứng trào ngược dạ dày thực quản, rất có tác dụng.
  • Coca thuốc trên còn dùng điều trị diệt HP, thường phối hợp với Amoxicilline, Clarithromycine và Metronidazole.
V. Các thuốc khác:
Mucosta hoặc Rebamipide là một hợp chất được lựa chọn từ các chất tương tự Amino acide của 2 (aH) - Quinolone. Nó có tác dụng kích thích niêm mạc dạ dày tiết ra Prostaglandine, cải thiện chất lượng của chất nhày dạ dày bằng cách làm tăng thành phần Glycoprotein, ức chế sự bám dính của HP vào niêm mạc dạ dày, ức chế bạch cầu trung tính sản sinh Cytokine, ức chế sản xuất các Interleukine 8... Do đó, nó có tác dụng làm lành ổ loét, ngăn ngừa loét tái phát, đồng thời làm giảm triệu chứng viêm của các đợt viêm dạ dày cấp từ viêm dạ dày mạn, ngăn ngừa loét dạ dày tá tràng do các thuốc chống viêm không Steroide.
Có thể dùng đơn độc hoặc phối hợp với các thuốc ức chế H2 hoặc thuốc chống acide, thuốc tạo màng bọc.
Liều lượng: Viên nén 100mg x 3 lần/ngày.
Thuốc hầu như không có tác dụng phụ
Selbex trong đó chứa Teprenone có tác dụng kích thích dạ dày tiết chất nhày. Thực nghiệm trên chuột cho uống Ethalol sau khi đã được dùng Selbex và không dùng Selbex ở 2 nhóm chuột, nhóm được dùng Selbex trước thì tổn thương dạ dày không đáng kể so với nhóm không được dùng Selbex có tổn thương ở niêm mạc dạ dày rất rõ. Nó được sử dụng phối hợp với các thuốc dạ dày khác để làm tăng tỷ lệ liền sẹo và liền sẹo nhanh hơn, làm giảm đáng kể tỷ lệ loét tái phát, làm giảm các tổn thương viêm dạ dày cấp. Thuốc có rất ít tác dụng phụ.
Liều lượng: Mỗi viên nang chứa 50 mg Teprenone, uống 3 viên/ngày sau mỗi bữa ăn. Không nên dùng cho trẻ em và phụ nữ có thai vì chưa có thông tin đầy đủ.
GS. TS. Nguyễn Khánh Trạch 
Nguồn: http://bachmai.gov.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=505&Itemid=33