My status

My backup memory
Hiển thị các bài đăng có nhãn Stock. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Stock. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 7 tháng 9, 2012

5 bí quyết giúp các nhà đầu tư hạnh phúc hơn

Đối với nhiều nhà đầu tư, cảm giác hạnh phúc là một thứ thật mong manh và ngắn ngủi, thậm chí đối với một vài người nó còn trở nên quá xa vời kể từ khi họ dấn thân của con đường đầu tư.
Thực ra, “hạnh phúc” và "đầu tư" không phải 2 khái niệm đối lập, nhưng chắc chắn việc dành cả đời để theo đuổi tiền bạc sẽ không đưa nhà đầu tư đến hạnh phúc.
Bởi vậy, làm cách nào để hài hòa 2 yếu tố hạnh phúc và tiền bạc luôn là một trong những câu hỏi trăn trở nhất của các nhà đầu tư. Và dưới đây là 5 bí quyết giúp họ phần nào thỏa mãn được nhu cầu ấy.
Bí quyết 1: Đừng lo lắng về những gì người khác nghĩ
Thông thường để trở nên tỉnh táo và sáng suốt trước các thông tin gây nhiễu, nhà đầu tư cần giữ cho mình một cái đầu lạnh trước những gì người khác nghĩ về mình, ngoại trừ điều đó sẽ tạo thêm động lực để làm điều ngược lại.
Tất nhiên, việc bỏ qua những gì người khác gán cho không phải điều dễ dàng, nhất là đối với những nhà đầu tư mới bước vào nghề. Tuy nhiên, nếu là 1 nhà đầu tư thông minh, việc đi ngược lại với đám đông sẽ giúp họ có thêm cơ hội để bứt phá.
Tất cả mọi người đều muốn được lắng nghe và được tôn trọng, muốn có được phản hồi tích cực, và sự quý mến của những người xung quanh. Nhưng đó là sự hài lòng bên ngoài và nó sẽ rất dễ đưa nhà đầu tư đến trạng thái nghiện, cần nhiều hơn nữa, hơn nữa. Cảm giác nghiện đó sẽ giết chết linh cảm thực sự của 1 nhà đầu tư.
Bởi vậy, không nên cố chứng minh điều gì với người khác mà thay vào đó hãy tập trung vào sự hài lòng nội bộ, điều khiển sự tự thỏa mãn bên trong con người và nuôi dưỡng thứ linh cảm tuyệt vời đó.
Bí quyết 2: Hãy trung thực
Trong một bài viết nổi tiếng đăng trên tạp chí Harvard Business Review vào năm 2010 của giáo sư Clay Christensen có đặt ra một vấn đề: sự trung thực có vai trò thế nào trong việc tạo ra một không gian sống cho các nhà đầu tư.
Trung thực trong công việc, trong cộng đồng, trung thực với gia đình và với danh mục đầu tư của chính mình không chỉ giúp cuộc sống của các nhà đầu tư dễ thở hơn, bớt căng thẳng hơn và tất nhiên quan trọng hơn nó sẽ giúp họ kiếm được nhiều tiền hơn, đặc biệt là trong dài hạn.
Bí quyết 3: Không bao giờ hối hận vì quyết định mua
Việc mua một số cổ phiếu trong những tính toán sai lầm và cảm thấy cả thị trường đang chống lại mình là một trong những cảm giác quen thuộc của hầu hết cả nhà đầu tư.
Nhưng lời khuyên của các chuyên gia là đừng bao giờ hối hận và tự trách mình, bởi điều đó sẽ chỉ khiến nhà đầu tư lún sâu thêm vào sai lầm. Thay vì vậy, hãy “liếm láp vết thương” và học hỏi từ những sai lầm đó.
Bí quyết 4: Luôn ủng hộ bản thân
Không nên tự trách bản thân nếu không có đủ kiến thức trong một lĩnh vực rộng và sâu như đầu tư. Bởi vậy, nhà đầu tư nên biết cách sử dụng tiền để chọn một cố vấn tài chính hay môi giới để quản lý danh mục đầu tư trong trường hợp kiến thức của họ chưa được trang bị đầy đủ.
Các cố vấn tài chính được trả lương để thuyết phục nhà đầu tư quản lý danh mục đầu tư một cách hiệu quả nhất, bởi vậy nhà đầu tư cần đặt lại thật nhiều câu hỏi trước khi chấp nhận lời khuyên của họ. Hãy nhớ rằng chỉ nên tin vào chính bản thân mình.
Bí quyết 5: Không bao giờ sợ hãi
Dấn thân vào nghề đầu tư là một sự lựa chọn không có lợi cho sức khỏe, bởi thị trường đem lại không chỉ sự lo lắng, sợ hãi, tức giận mà đôi khi cả những cảm giác ngọt ngào cũng có thể khiến nhà đầu tư bị ... đau dạ dày.
Nhà đầu tư khôn ngoan nên tạo ra cho mình 1 tập hợp các nguyên tắc nhằm đưa cuộc sống vào khuôn khổ và tránh những tác động xấu của thị trường. Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất là không để bản thân sợ hãi.
Hãy nhớ, nỗi sợ hãi chính là điểm yếu nhất của nhà đầu tư và đồng thời nó đem lại lợi thế cho các nhà đầu tư khác.
Hồng Liên
Theo TTVN/Marketwatch
 

Thứ Hai, 13 tháng 6, 2011

VAFI khuyến nghị tiêu chí chọn DN để đầu tư ngày 11/5/2011

VAFI cho rằng, có một bộ phận chứng khoán tuy giá đã giảm nhiều nhưng vẫn đắt vì công nợ, vì chất lượng tài sản và trình độ quản trị DN quá yếu kém.

Theo Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính (VAFI), với thực trạng thị trường hiện nay, để bảo toàn vốn, NĐT cá nhân nên xem xét lựa chọn DN có vốn điều lệ dao động khoảng 100 - 150 tỷ đồng, giá trị sổ sách lớn gấp 1,5 - 2 lần vốn điều lệ.
Đồng thời, DN có lịch sử kinh doanh thuộc loại trung bình và khá trong 7 năm hoạt động gần đây, lợi nhuận sau thuế hàng năm dao động khoảng 20 - 30% vốn điều lệ, không vay nợ nhiều, tổng nợ vay ngân hàng thấp hơn hoặc dao động khoảng 50%/vốn chủ sở hữu. NĐT nên chú ý đến giá trị các loại tài sản vô hình (ít thể hiện trên sổ sách) như quyền sử dụng đất, công trình kiến trúc; đặc biệt, nên chọn DN kinh doanh không bị ảnh hưởng nhiều từ các khó khăn hiện nay hoặc có tiềm năng sinh lời lớn khi tình hình kinh tế vĩ mô thuận lợi.
VAFI cho rằng, có một bộ phận chứng khoán tuy giá đã giảm nhiều nhưng vẫn đắt vì công nợ, vì chất lượng tài sản và trình độ quản trị DN quá yếu kém.
Theo ĐTCK

Thứ Tư, 20 tháng 4, 2011

Đầu tư vào DN chưa niêm yết: Khoảng tối trong trích lập dự phòng


Xem hình

Cùng đầu tư vào một DN, với mức giá khá gần nhau, nhưng hai DN lại có 2 cách ứng xử hoàn toàn khác biệt. Đây có lẽ là một ví dụ cho thấy, khoảng tối lớn vẫn đang tồn tại trong bức tranh các khoản đầu tư vào DN chưa đại chúng hoặc chưa niêm yết.
Câu chuyện của VIP và VTO
Trong Báo cáo kiểm toán năm 2010 của CTCP Vận tải xăng dầu Vitaco (mã VTO) và CTCP Vận tải xăng dầu VIPCO (mã VIP) có một đặc điểm chung, đó là cùng có ý kiến ngoại trừ của kiểm toán viên liên quan đến vấn đề trích lập dự phòng khoản đầu tư vào cùng một DN: CTCP An Phú. Nguyên nhân dẫn đến việc ngoại trừ trong cả hai trường hợp đều là: cổ phiếu CTCP An Phú chưa được niêm yết và công ty cũng không thu thập được các thông tin trên thị trường giao dịch không chính thức từ các CTCK.
Tại VIPCO, khoản đầu tư 652.000 cổ phiếu CTCP An Phú với giá gốc 56,16 tỷ đồng (tương đương hơn 86.100 đồng/CP) được Ban lãnh đạo Công ty ghi nhận vào 31/12/2010 là nguyên giá gốc. Trong khi đó, cùng thời điểm trên, 625.000 cổ phiếu trên với giá gốc 53,5 tỷ đồng (tương đương mức 85.600 đồng/CP) lại được Vitaco ghi nhận giá trị chỉ còn 6,875 tỷ đồng, tương đương mức trích lập dự phòng tổng cộng lên tới 46,625 tỷ đồng (trong đó, năm 2010 trích lập 24,375 tỷ đồng, năm 2009 trích lập 22,25 tỷ đồng). Với mức trích lập này, giá cổ phiếu CTCP An Phú chỉ còn 11.000 đồng/cổ phiếu, tương đương 12,85% giá gốc.
Ai đúng, ai sai hay cả hai cùng sai trong trường hợp trên là câu hỏi không dễ trả lời khi DN chưa tất toán khoản đầu tư. NĐT lại càng khó biết khi thậm chí, họ có thể còn không biết tồn tại một CTCP An Phú như vậy. Nhưng rõ ràng, sự khác biệt này đã tác động đến kết quả kinh doanh trong kỳ, khi nếu VIPCO trích lập như Vitaco thì, kết quả kinh doanh sẽ phải giảm đi 48,988 tỷ đồng trong khi lợi nhuận trước thuế công ty mẹ năm 2010 là 50,675 tỷ đồng. Còn nếu Vitaco lựa chọn cách trích lập giống như của VIPCO, lợi nhuận Công ty (hợp nhất) sẽ tăng thêm 46,625 tỷ đồng trên 102,011 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế.
Mù mờ trích lập dự phòng
Một điều dễ thấy là từ năm 2009 đến nay, ngoại trừ một số cổ phiếu chuẩn bị niêm yết, thị trường OTC khá trầm lắng, thậm chí đóng băng với đa số cổ phiếu "lạ". Do đó, với những khoản đầu tư này, việc DN ghi nhận như thế nào, NĐT sẽ rất khó khăn để xác định tính chính xác.
Trong BCTC kiểm toán năm 2010 của CTCP Đầu tư và phát triển SACOM (SAM), khoản mục đầu tư tài chính dài hạn tính theo giá gốc lên tới 1.300 tỷ đồng, trong đó 380 tỷ đồng đầu tư vào công ty con, 386,79 tỷ đồng đầu tư vào công ty liên doanh liên kết, còn lại 533,669 tỷ đồng đầu tư dài hạn khác. Trong đó có 150.000 chứng chỉ quỹ PRUBF1, 300.000 cổ phiếu CTCP Du lịch Bưu điện, 180.000 cổ phiếu ALP giá hơn 40.000 đồng/CP, hơn 4 triệu HPG giá 40.000 đồng/CP, 2 triệu cỏ phiếu WSS giá 10.000 đồng/CP, 28 triệu chứng chỉ quỹ tầm nhìn SSI (giá 10.000 đồng/CCQ), gần 1 triệu QCG giá 25.800 đồng/CP, 375.000 cổ phiếu SSI (giá 36.000 đồng/CP). Trong khi đó, tổng trích lập dự phòng cho toàn bộ 1.300 tỷ đồng đầu tư này tại SACOM là 64 tỷ đồng.
Báo cáo kiểm toán không có ngoại trừ, SAM đã qua được một vòng tương đối quan trọng để chiếm niềm tin của NĐT, nhưng với tổng giá trị đầu tư quá lớn trong khi NĐT không thể xác minh tính hiệu quả các khoản đầu tư này, thì việc xuất hiện những thắc mắc về tính chuẩn xác của số liệu trích lập là điều khó tránh khỏi.
Với CTCP Kinh Đô (KDC), thời điểm này, Công ty vẫn chưa có BCTC năm kiểm toán, đồng thời, BCTC quý IV chưa nêu chi tiết các khoản đầu tư (chỉ chung chung ở con số 291,276 tỷ đồng đầu tư cổ phiếu dài hạn khác, 212,363 tỷ đồng đầu tư dài hạn; 800,5 tỷ đồng đầu tư vào công ty liên doanh liên kết trên tổng số 2.301,287 tỷ đồng đầu tư dài hạn), trong khi con số trích lập dự phòng giảm giá là 94,84 tỷ đồng (tương đương 7,29% giá trị đầu tư dài hạn khác và đầu tư vào công ty liên doanh liên kết). Điều này khiến cho những NĐT quan tâm phải đặt đâu hỏi: liệu con số lợi nhuận quý IV/2010 có sát với con số lợi nhuận trong BCTC kiểm toán năm nay? Nghi ngờ này không phải là không có cơ sở, khi năm 2009, công chúng đầu tư đã từng bị "sốc" do kết quả kinh doanh năm 2008 của Công ty chuyển từ lãi 142,3 tỷ đồng thành lỗ 61,7 tỷ đồng do trích lập dự phòng chưa đúng.
Tất nhiên, không phải DN niêm yết nào cũng có quy mô đầu tư tài chính dài hạn lớn cỡ REE, SAM, KDC (ngoại trừ các đơn vị chuyên về tài chính). Nhưng, nếu xem xét giá trị đầu tư tài chính trên cơ sở tỷ trọng tài sản của toàn DN, hoặc so sánh chi phí tài chính có khả năng bị DN… quên trích lập với tương quan lợi nhuận một năm, sẽ thấy những bất thường đáng nghi ngại.
Ba năm vừa qua, các DN đã minh bạch hơn trong trình bày thuyết minh về "các khoản đầu tư dài hạn khác", nhưng không phải tất cả. Câu chuyện của VIPCO, Vitaco là một minh chứng cho thấy: ngay cả khi DN minh bạch thì số liệu đưa ra cũng không hẳn là con số hoàn toàn đáng tin cậy, nên những DN để một lượng tài sản lớn chỉ đơn giản diễn đạt ở chữ "khác" thì mức rủi ro lớn cho NĐT là điều có thể xảy ra.

Thứ Năm, 14 tháng 4, 2011

Sự khác nhau giữa vốn điều lệ vs. vốn chủ sở hữu và rủi ro trong kinh doanh

Q: Ý nghĩa của vốn điều lệ trên giấy đăng ký kinh doanh.

Trường hợp VĐL > VCSH
Bạn thân mến, việc vốn điều lệ khác với vốn chủ sở hữu là bình thường, đó là vì lý do sau. Vốn điều lệ chỉ ghi con số có tính chất đăng ký. Trong khi đó, doanh nghiệp vận hành qua các năm, lãi-lỗ làm thay đổi phần lãi giữ lại, khiến cho vốn chủ sở hữu trên thực tế thay đổi. Đó là từ nguồn vận hành sản xuất-kinh doanh.
Hơn thế nữa, ngày nay với việc phát hành cổ phần mới, với mức thặng dư tạo thành vốn chủ sở hữu, và việc chuyển đổi các trái phiếu chuyển đổi thành cổ phần, tức là biến tài sản nợ thành tài sản vốn, vốn chủ sở hữu tiếp tục còn tăng lên. 
Khi vốn chủ sở hữu lớn hơn nhiều vốn điều lệ thì có nghĩa là công ty đang làm ăn thực sự tốt không hay thể hiện sự kì vọng quá mức của các cổ đông vào lợi nhuận trong tương lai của công ty => áp lực lớn đối với hoạt động cũng như các quyết định của ban điều hành.
Vốn chủ sở hữu tăng là dấu hiệu việc KD đang tiến triển, tuy nhiên cần xem xét cơ cấu góp phần tăng vốn chủ sở hữu đến từ đâu (từ lợi nhuận giữ lại, phát hành CP tăng vốn,...). Ví dụ hãy xem hệ số ROE có liên quan đến VCSH. ROE = LSST/Tổng giá trị VCSH (tổng của tất cả tài khoản loại 4). Nếu VCSH tăng do lợi nhuận giữ lại -> hệ số ROE thường tăng -> hiệu quả sử dụng vốn tăng. Trong khi nếu VCSH tăng do phát hành CP -> ROE giảm -> hiệu quả sử dụng vốn giảm -> quyền lợi cổ đông giảm.
Trường hợp VĐL > VCSH
Ngược lại, lại có trường hợp vốn điều lệ lớn hơn vốn chủ sở hữu, một trong những lý do là: (i) Chưa góp đủ vốn; (ii) Vốn chủ sở hữu teo đi do phần lỗ trong hoạt động kinh doanh.

Tuy vậy, vốn điều lệ vẫn có ý nghĩa quan trọng của nó:
  1. Trước tiên, căn cứ vào đó có thể biết được số cổ phần của công ty cổ phần đã phát hành, nếu bạn biết mệnh giá;
  2. Thứ hai, đó là căn cứ pháp lý trong trường hợp tranh chấp, giải thể, để biết được liệu một doanh nghiệp đã hoàn thành nghĩa vụ đầu tiên và trên hết là đóng góp đủ vốn hay chưa;
  3. Thứ ba, qua vốn điều lệ và các phần cấu thành còn lại của vốn chủ sở hữu, bạn cũng có thể hình dung doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và đang chú trọng vào lĩnh vực nào.
(1) và (2) tương đối dễ hình dung. Tôi chỉ lấy ví dụ điểm thứ (3) để bạn thấy bức tranh. Giả sử, vốn điều lệ của bạn là 10 tỷ đồng, với mệnh giá 1 triệu đồng cổ phần, và như vậy, bạn có 10.000 cổ phần. Thế nhưng, cấu trúc vốn chủ sở hữu lại có phần thặng dư vốn do phát hành 1.000 cổ phần cho các cổ đông mới nào đó, với mức giá mua 10 triệu đồng/cổ phần, như vậy bạn có mức thặng dư vốn 9 tỷ, và chỉ riêng phần này thôi, cũng đã xấp xỉ vốn điều lệ.
Hơn thế nữa, nếu cty lại có mức lợi nhuận sau thuế giữ lại doanh nghiệp là 10 tỷ nữa, thì khi này bạn có một cấu trúc vốn chủ sở hữu là 29 tỷ, tạo ra từ vốn điều lệ 10 tỷ, thặng dư vốn 9 tỷ và 10 tỷ được tạo ra từ hoạt động kinh doanh hợp pháp, sau khi đã thực hiện các nghĩa vụ tài chính với thuế và cổ đông.

Q: Sự khác nhau giữa vốn điều lệ và vốn chủ sở hữu sẽ khiến cho doanh nghiệp gặp rủi ro gì trong hoạt động kinh doanh.
A: Các rủi ro
  • Đối với vận hành sản xuất-kinh doanh, doanh nghiệp có thể thiếu vốn, do vốn điều lệ ít nhiều phản ánh mong muốn của cổ đông kinh doanh ở quy mô "nào đó hợp lý". Thiếu vốn sẽ vất vả xoay sở.
  • Đối với pháp lý thì tiềm tàng nếu có tranh chấp, hay phải bồi thường, các cổ đông có nghĩa vụ góp đủ số đã đăng ký, đây là yêu cầu pháp luật để bảo đảm quyền lợi các bên liên quan, đặc biệt là chủ nợ của công ty.
  • Thứ ba, việc chưa góp đủ vốn hoặc lỗ làm giảm hiệu quả kinh doanh và giảm vốn chủ sở hữu nhìn chung đều có thể gây ra hạn chế trong trường hợp công ty muốn kêu gọi thêm vốn từ các cổ đông mới, hoặc từ đối tác vốn. Tôi nói "nhìn chung" bởi vì có những hoạt động kinh doanh và dù liên tục lỗ và giảm vốn cổ đông, nhưng vẫn tiếp tục thu hút được đầu tư mới, do tiềm năng tương lai trong xu hướng lạc quan của thị trường và ngành. Ở thế giới trường hợp của Amazon là một ví dụ. Ở Việt Nam thì rất nhiều công ty tài chính và cả bất động sản cũng như vậy trong quá khứ. Sự lạc quan của cổ đông mới là nguồn sinh lực ngay cả khi vốn chủ sở hữu suy giảm do tính chất "conservative" của nguyên lý hạch toán-kế toán.
  • Ngày nay còn việc liên doanh, liên kết và hợp vốn thành lập doanh nghiệp mới. Trong các trường hợp này, bên góp vốn đều được kiểm tra tình hình thực hiện nghĩa vụ đóng góp vốn trước tiên chính tại công ty mang vốn đi góp. Ngoài ra, việc góp đủ vốn điều lệ cũng là căn cứ quan trọng để các đối tác kinh doanh xem xét mức độ cam kết của chủ sở hữu công ty đối với các công việc kinh doanh. Một số tình huống đấu thầu dự án cũng phải trình bày năng lực tài chính, và hiển nhiên, việc đầu tiên là phải đủ vốn góp theo điều lệ, rồi mới nói tới các khía cạnh khác của năng lực tài chính.

Chủ Nhật, 3 tháng 4, 2011

Kỳ vọng (Expectation)

Kỳ vọng còn gọi là kỳ vọng toán học. Đây là một khái niệm thống kê, thường ám chỉ mức trung bình, và có ký hiệu là E(X). Kỳ vọng được tính bằng công thức:
E(X)=Xip(Xi)
Kỳ vọng được sử dụng rất phổ biến cho việc phân tích kinh doanh và đầu tư chứng khoán. Khi áp dụng cho tính toán các đại lượng thống kê, E(X) trở thành thống kê ước lượng cho các giá trị trong tương lai, và được hiệu chỉnh theo mục tiêu sử dụng. Tài liệu có thể tham khảo tốt là cuốn Probability của tác giả A. Shiryaev, một nhà toán học xuất sắc của Steklov Institute of Mathematics, ĐHTH Lomonosov Moscow (MGU).

Khái niệm kỳ vọng được đưa ra từ thế kỷ 19 do các nhà sinh học và thống kê, từ đó tới nay trở thành khái niệm rất quen thuộc của các thị trường tài chính.
Nguồn: http://www.saga.vn/dictview.aspx?id=6395
Thông tin khác: http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1_tr%E1%BB%8B_k%E1%BB%B3_v%E1%BB%8Dng
Ví dụ:
Hỏi: Hãy giúp đỡ người tù khốn khổ. Một người tù khốn khổ bị nhốt trong xà lim. Xà lim này có 3 cánh cửa. Cánh thứ nhất cho phép trả anh ta về với thế giới tự do ngay lập tức. Cánh cửa thứ hai đưa anh ta đi tới một căn hầm và đường ngầm tối đen, rồi lại dẫn anh ta quay trở lại đúng xà lim cũ, sau 1 ngày lặn lội. Cánh cửa thứ ba cũng đưa tù nhân tới một đường ngầm tối đen, và rỗi lại dẫn trở lại xà lim cũ, nhưng sau 3 ngày.
Giả sử rằng xác suất để người tù chọn một trong 3 cánh cửa là như nhau, bạn giúp anh ta xác định khoảng thời gian kỳ vọng để anh ta tìm tới tự do.

Đáp:
Gọi X là số ngày để người tù thoát. Ta cần tính P(X=0);P(X=1);P(X=3); P(X=4).
Trường hợp người tù thoát trong 0 ngày - đi ngay vào cửa 1: P(X=0)= 1/3.
Trường hợp người tù thoát trong 1 ngày - đi vào cửa 2 rồi vào cửa 1: P(X=1)= 1/3*0,5
Trường hợp người tù thoát trong 3 ngày- đi vào cửa 3 rồi vào cửa 1: P(X=3)=1/3*0,5
Trường hợp người tù thoát trong 4 ngày- đi vào cửa 2 rồi vào cửa 3 rồi vào cửa 1 hay đi vào cửa 3 rồi vào cửa 2 rồi vào cửa 1: P(X=4)= 1/3*0,5 + 1/3*0,5
Vậy khoảng thời gian kỳ vọng để thoát là E= 0*1/3 + 1*0,5/3 + 3*0,5/3 + 4*1/3 = 2 ngày.

Trái phiếu chuyển đổi: Coi chừng "rượu pha thêm nước"


Trong điều kiện hiện nay, thay vì phát hành thêm ngay cổ phiếu, DN chọn cách phát hành cổ phiếu “trong tương lai” thông qua công cụ trái phiếu chuyển đổi có thể coi là một bước đi khôn ngoan.
Trai phieu chuyen doi Coi chung ruou pha them nuoc
Nhiều doanh nghiệp chọn cách phát hành cổ phiếu “trong tương lai” thông qua công cụ trái phiếu chuyển đổi
Ông Lê Hải Trà, Phó GĐ Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM, đã chia sẻ về cách thức huy động vốn mới này.
Trong thời gian qua và sắp tới, nhiều doanh nghiệp thực hiện việc phát hành trái phiếu chuyển đổi thay vì phát hành cổ phiếu mới. Là một chuyên gia, ông nghĩ sao về động thái này?
Trước hết, trái phiếu chuyển đổi là một loại công cụ lưỡng tính do có thuộc tính của cả trái phiếu và cổ phiếu. Theo định nghĩa, trái phiếu chuyển đổi là một loại trái phiếu doanh nghiệp có thể chuyển đổi thành cổ phiếu của doanh nghiệp đó theo tỷ lệ chuyển đổi và khuôn khổ thời gian xác định ngay tại thời điểm phát hành.
Loại công cụ này cho phép tổ chức phát hành vay vốn với một mức chi phí lãi suất thấp trong hiện tại, đồng thời có thể hoán chuyển khoản nợ đó thành vốn cổ phần trong tương lai.
Sở dĩ loại trái phiếu này thường có lãi suất thấp vì thuộc tính có thể chuyển đổi thành cổ phiếu có sức hấp dẫn đối với công chúng đầu tư. Người đầu tư có thể chấp nhận mức lãi suất danh nghĩa thấp hiện tại để đổi lấy quyền chuyển đổi thành cổ phiếu trong tương lai.
Trong thời gian qua, công chúng đầu tư đã được biết đến những kiến thức về tác động “pha loãng” của việc phát hành thêm cổ phiếu đối với doanh nghiệp cũng như giá cổ phiếu. Trong điều kiện thị trường hiện nay, thay vì phát hành thêm ngay cổ phiếu, doanh nghiệp chọn cách phát hành cổ phiếu “trong tương lai” thông qua công cụ trái phiếu chuyển đổi có thể coi là một bước đi khôn ngoan.
Ông có nói đến yếu tố pha loãng. Vậy với việc phát hành trái phiếu chuyển đổi thì tác động của sự pha loãng đó đối với giá cổ phiếu sẽ như thế nào? Sẽ cần cân nhắc gì khi quyết định đầu tư loại công cụ này?
Có hai yếu tố người đầu tư cần cân nhắc: mức giá chuyển đổi và thời gian chuyển đổi. Về yếu tố giá, người đầu tư sẽ so sánh mức giá chuyển đổi với giá cổ phiếu hiện hành cũng như mức giá cổ phiếu dự kiến trong tương lai (thời điểm được chuyển đổi) để quyết định đầu tư.
Về thời gian, đây là yếu tố tiềm ẩn trong những rủi ro, vì vậy người đầu tư cần lưu ý về những gì có thể xảy ra đối với tổng số lượng cổ phiếu lưu hành của tổ chức phát hành trong khoảng thời gian trước khi đến hạn chuyển đổi.
Hãy xem ví dụ sau. Công ty niêm yết ABC hiện có 10 triệu cổ phần, giá thị trường là 30.000đồng/cổ phiếu. Giả sử công ty phát hành thêm 1 triệu trái phiếu chuyển đổi, mệnh giá 100.000 đồng/trái phiếu, lãi suất 2%/năm.
Sau 1 năm kể từ ngày phát hành có thể chuyển đổi thành cổ phiếu ABC theo mệnh giá (10.000 đồng/cổ phiếu) với tỷ lệ 1 trái phiếu: 10 cổ phiếu, 100% được phát hành cho cổ đông với tỷ lệ 10:1 (sở hữu 10 cổ phiếu được mua 1 trái phiếu).
Theo ví dụ, có thể thấy rằng loại trái phiếu này tỏ ra rất hấp dẫn đối với người đầu tư, vì tuy mức lãi suất thấp nhưng họ được quyền mua cổ phiếu ABC với mức giá chỉ bằng 1/3 mức giá hiện hành sau thời hạn 1 năm.
Giả sử công ty ABC kinh doanh tốt, giá cổ phiếu sau 1 năm có thể cao hơn nhiều so với mức 30.000 đồng/cổ phiếu hiện tại. Như vậy, trái phiếu chuyển đổi ABC hàm chứa một giá trị. Giá trị này sẽ do người đầu tư quyết định trên cơ sở đánh giá về triển vọng giá cổ phiếu của công ty ABC.
Trên thị trường thứ cấp, vào ngày giao dịch không được hưởng quyền mua trái phiếu chuyển đổi ABC, người đầu tư sẽ tự điều chỉnh giá cổ phiếu ABC tương ứng với giá trị của trái phiếu. Sở giao dịch sẽ không điều chỉnh giá tham chiếu, vì hiện tại công ty ABC chưa hề phát hành thêm cổ phiếu. Sau 1 năm, công ty ABC sẽ làm thủ tục niêm yết bổ sung thêm khối lượng cổ phiếu được chuyển đổi thực tế từ trái phiếu.
Ở đây, ngoài khái niệm “cổ phiếu lưu hành” (outstanding shares – OS), có một khái niệm khác cần hiểu rõ là “cổ phiếu lưu hành pha loãng” (diluted outstanding shares – DOS), được xác định bằng khối lượng cổ phiếu đang lưu hành cộng với lượng cổ phiếu có thể phát hành thêm do thực hiện quyền chuyển đổi hoặc các quyền khác.
Trong ví dụ trên, DOS của công ty ABC có thể tính được là 20 triệu (10 triệu OS và 10 triệu có thể phát hành thêm từ việc chuyển đổi trái phiếu). Như vậy, khối lượng 1 triệu trái phiếu chuyển đổi tương đương với 100% OS (10 triệu), hay 50% DOS của công ty ABC tại thời điểm phát hành.
Nếu không có gì thay đổi, và người đầu tư chuyển đổi hết trái phiếu sang cổ phiếu sau 1 năm, OS của công ty ABC sẽ là 20 triệu.
Tuy nhiên, quyền lợi của những người nắm giữ trái phiếu sẽ bị ảnh hưởng nếu trong khoảng thời gian 1 năm đó có sự thay đổi về OS, dẫn đến thay đổi DOS của công ty ABC. Sự thay đổi đó có thể do công ty ABC trả cổ tức bằng cổ phiếu, phát hành cổ phiếu thưởng, phát hành bổ sung, hoặc chỉ đơn giản là tách cổ phiếu.
Tiếp tục với ví dụ trên. Giả sử, 6 tháng sau khi phát hành trái phiếu chuyển đổi, giá cổ phiếu ABC tăng lên mức 80.000 đồng/cổ phiếu. Để cải thiện tính thanh khoản trên thị trường giao dịch, công ty ABC quyết định tách cổ phiếu theo tỷ lệ 1:4.
Như vậy, sau khi tách cổ phiếu, OS sẽ là 40 triệu tại mức giá 20.000 đồng/cổ phiếu và DOS của công ty ABC tương ứng sẽ là 50 triệu. Nghĩa là sau khi tách cổ phiếu, 1 triệu trái phiếu chuyển đổi chỉ còn tương ứng 25% OS, hay 20% DOS của công ty ABC.
Tương tự như tách cổ phiếu, tổ chức phát hành cũng có thể “pha thêm nước vào rượu” thông qua các hành động khác dẫn tới sự gia tăng khối lượng cổ phiếu lưu hành, làm giảm giá cổ phiếu và ảnh hưởng đến lợi ích của người nắm giữ trái phiếu khi đến hạn chuyển đổi.
Vậy làm thế nào để bảo vệ lợi ích của người đầu tư?
Ở các thị trường khác, luật công ty hoặc luật chứng khoán có những quy định về “chống pha loãng” sở hữu, nhằm bảo vệ lợi ích của công chúng. Theo đó, khi phát hành trái phiếu chuyển đổi, tổ chức phát hành phải tuân thủ các quy định này thông qua việc nêu rõ trong thông cáo phát hành những điều khoản cụ thể về chống pha loãng cổ phiếu lưu hành.
Cụ thể, trong trường hợp có thay đổi về khối lượng cổ phiếu lưu hành sau khi đã phát hành trái phiếu chuyển đổi, tổ chức phát hành phải có những điều chỉnh tương ứng về các điều kiện chuyển đổi (giá hoặc tỷ lệ chuyển đổi) của trái phiếu. Mặt khác, tại các thị trường phát triển, tổ chức phát hành rất khó bán trái phiếu chuyển đổi cho công chúng đầu tư khi không đưa ra những điều khoản chống pha loãng này.
Tại Việt Nam, trái phiếu chuyển đổi vẫn còn là một loại công cụ khá mới mẻ. Vì vậy, cả Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng khoán đều chưa có những quy định cụ thể về vấn đề này.
Tuy nhiên, trước xu thế trái phiếu chuyển đổi có thể trở nên phổ biến hơn, thiết nghĩ Ủy ban Chứng khoán cần có những hướng dẫn kịp thời với hoạt động phát hành của các doanh nghiệp. Đồng thời, phổ cập kiến thức cho công chúng về loại công cụ này, giúp họ tránh được rủi ro mua phải “rượu pha thêm nước”.
Theo Hoàng XuânVneconomy

Thứ Bảy, 2 tháng 4, 2011

Một số sai lầm của các nhà đầu tư chứng khoán Việt Nam

Bài viết này mặc dù đăng từ 2006 nhưng vẫn còn nguyên giá trị
Bài này thuộc sự kiện/chuyên đề: Kiến thức chứng khoán
Trong không khí nóng bỏng của TTCK Việt Nam, tôi xin mạn phép trình bày một số sai lầm của các nhà đầu tư chứng khoán. Cái này đúc kết từ kinh nghiệm và quan sát. Tôi viết bài này với tất cả sự kính trọng các nhà đầu tư vì dám mạo hiểm đầu tư vào một loại sản phẩm cao cấp, trên một thị trường có tính đặc thù cao. Nhưng sự thật là sự thật, vì một thị trường lành mạnh và bền vững, tôi sẽ rất trung thực.
1. Nghe hơi nồi chõ. Thông tin rất quan trọng trên thị trường, nhưng vì thiếu hiểu biết, nhiều nhà đầu tư có xu hướng nghe ngóng. Tin thì đủ loại, trên trời, dưới biển, vận hành, tài chính, tổ chức... Có điều chẳng mấy ai có khả năng kiểm định. Vì vậy, cái sự nghe trở nên láng máng, truyền tai nhau hết sức nguy hiểm.
Thông thường, họ tìm một số nhân vật có khả năng "hót hay như khướu" hoặc tìm một vài cán bộ môi giới-tư vấn của chính các công ty chứng khoán. Cái này có mấy điểm hại sau:
* Không khách quan vì bản chất là xung đột lợi ích.
* Không đảm bảo chính xác vì có khi người nói cũng không biết mình đang nói gì.
* Không có bộ lọc vì thế không thể biết cái vừa nhận được là vàng hay thực tế là rác.
* Luôn luôn muộn, vì khi nghe được thì cũng rất nhiều người khác đã nghe được.
2. Không có kỳ vọng đầu tư riêng. Nói giản dị là không biết mình muốn gì, ngoài một nguyện vọng ngất trời cao là Lợi Nhuận.
Các nhà đầu tư nước ngoài chẳng hạn, họ biết rất chính xác điều họ muốn, và vì phần lớn là các quỹ dạng Mutual Fund, nên các chính sách của họ tương đối nhất quán, ổn định. Họ không nhảy ra nhảy vào thị trường liên hồi, gây ra các chi phí giao dịch lớn trong khi hiệu quả chưa đo đếm được.
Việc không đặt kỳ vọng đầu tư cho mình cũng có nghĩa là để ước muốn trôi theo diễn biến thị trường. Ví dụ, lãi 20% trong vòng 3 tháng đã là tốt, nhưng vì ước muốn 40% trong vòng 4 tháng nên kết cục có khi chỉ là không bán được cả "hàng" và chết tắc với số tiền đầu tư.
Không có kỳ vọng còn liên quan tới một hiện tượng nữa là kỳ vọng bị bóp méo hoặc chèn ép.
3. Tâm lý bầy đàn. Tôi đã cùng GS. André Farber chứng minh bằng số liệu và mô hình thống kê toán rằng Hiệu ứng bầy đàn rất mạnh ở Việt Nam, và theo số liệu của chúng tôi là mạnh nhất thế giới. Hiệu ứng này đặc biệt mạnh khi giá thị trường tăng trong một khoảng thời gian liên tiếp khá dài.
Hệ quả trực tiếp là người đầu tư từ bỏ cả kỳ vọng cá nhân, để theo đuổi mức kỳ vọng của đám đông trên thị trường, khiến cho khoảng cách chiến lược đầu tư tiến dần tới epsilon bé tí. Trong khi đó, tính thanh khoản tạo ra do các Delta >> epsilon, và con người có các xu hướng giao dịch trái chiều.
Hệ quả thứ hai, cũng trực tiếp, là tính thanh khoản giảm dần. Mà tính thanh khoản chính là giá trị lớn nhất, duy nhất của TTCK (chứ không phải theo quan niệm sai lầm chung là tính năng huy động vốn đâu!) Khi tính thanh khoản trở nên "hàng hiếm" thị trường biến thành Casino. Thực sự là Casino vì mọi người cho rằng nó là cỗ máy kiếm tiền, xay ra tiền, nhào ra tiền, và đâu cũng là tiền... Chúng ta bằng sự nhìn nhận bình thường sẽ hiểu rằng điều này quá sai lầm và hoàn toàn tự huyễn hoặc.
4. Quan tâm tới lợi nhuận nhưng không quan tâm tới bổ sung kiến thức. Phần lớn nhà đầu tư chỉ quan tâm tới lợi nhuận, và thuộc một bài vỡ lòng rằng đào bới được thông tin mật "rò rỉ" đâu đó chính là cách làm giàu kiến thức. Điều này sai. Kiến thức khác thông tin. Kiến thức là một bộ lọc thông tin có phương hướng, có chủ đích và có phương pháp. Tôi dám cam đoan rằng việc chỉ chăm chắm đào bới các thông tin vốn nhiều như rác không làm các nhà đầu tư khôn ngoan hơn, có khi là tình tiết tăng nặng của các vấn đề tồn tại ở trên.
Chính vì không bổ sung kiến thức, nên thị trường hỗn loạn trong các dòng chảy thông tin. Mệt mỏi với thông tin càng khiến cho người ta dễ từ bỏ các kỳ vọng cá nhân, để hào hứng đi theo sự vẫy gọi của "hiệu ứng bầy đàn."
5. Tin rằng "mình khôn ngoan nhất". Họ cho rằng chỉ có họ mới là khôn ngoan nhất, đó là biểu hiện của thiếu kiến thức. Chính vì thiếu kiến thức, nhà đầu tư cũng không mấy khi quan tâm thực sự tới các cách thức tính toán, quản trị và phân tán rủi ro của rổ tài sản.
Ôi cái sự đời mới trớ trêu làm sao. Tôi sẽ xin lược trích một số ý kiến sau này của GS. Farber một trong những chuyên gia tài chính hàng đầu thế giới về hiện trạng mà 5 năm qua hầu như chưa thay đổi gì.
Chúng tôi cũng đầu tư, cũng hoạt động, cũng cung cấp dịch vụ tài chính... với cả một đội ngũ cộng sự dày công chăm chỉ rèn luyện... chứ không ầm ờ, bát nháo đâu. Và vì thế, chúng tôi hiểu thị trường nó không như phần lớn các nhà đầu tư nghĩ.
Nhiều người có thể không đồng tình, nhưng tôi đã nói từ trước là sẽ rất trung thực, vì thế, sẵn sàng chấp nhận phản hồi khắc nghiệt nhất của độc giả.
Vương Quân Hoàng (21/12/2006 11:36 AM) © SAGA - www.saga.vn

Vấn đề chia tách, thưởng cổ phiếu của doanh nghiệp: Của giời ơi!

Từ thực tế…

Hai phiên giao dịch vừa qua, REE tạo nên đột biến trong phiên giao dịch và trở thành cổ phiếu có khối lượng giao dịch lớn nhất sàn HOSE. Hiện tượng REE tăng giá mạnh xuất phát từ thông tin sẽ tiến hành chia cổ tức bằng tiền, chia thưởng cổ phiếu, phát hành cổ phiếu cho cán bộ chủ chốt và phát hành trái phiếu chuyển đổi. Cụ thể REE có kế hoạch chia thưởng cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu với tỷ lệ 1:1, trả cổ tức bằng tiền đợt 2 năm 2009 tỷ lệ 20% và phát hành 810,418 tỷ đồng trái phiếu chuyển đổi. Ngoài ra REE sẽ phát hành 8 triệu CP cho nhân viên chủ chốt trong công ty với giá 12.000 đồng/cổ phiếu.

Vài ngày trước, tin KLS chia thưởng cũng khiến mã CP này làm mưa làm gió trong nhóm CP ngành tài chính ngân hàng, sắp tới đây, tin chia tách và thưởng CP của PET, MAC, SSI… cũng làm nhà đầu tư điên đảo tranh nhau mua trần cổ phiếu cho đầy danh mục cho mình…

Không phải đến tận bây giờ, thông tin về việc chia thưởng mới tạo ra tâm lý cầu lớn vào CP như hiện tại, có lẽ ngay từ khi hình thành TTCK Việt Nam, nhà đầu tư đã có xu hướng thích CP có thông tin chia tách, thưởng cổ phiếu bởi họ vẫn quan niệm rằng, cổ phiếu sắp chia, có thưởng là cổ phiếu của những doanh nghiệp tốt. Tiện sự kiện REE hôm qua, tôi muốn đi sâu vào phân tích và làm rõ: liệu việc chia tách, thưởng cổ phiếu này có màu nhiệm và triển vọng đến thế?

Bản chất của việc chia tách, thưởng cổ phiếu?

Chia tách cổ phiếu hay còn gọi là chia nhỏ cổ phiếu, đó là một hành động của một công ty làm tăng số lượng cổ phiếu hiện đang lưu hành (outstanding shares). Tuy nhiên, mức vốn hóa của cổ phiếu (stock's market capitalization) vẫn không thay đổi. Các tỉ số phổ biến của việc phân chia là 2:1, 3:1, 3:2 (hay còn thường được gọi là chia thưởng 50%, 40%,30%).

Tách gộp CP đã xuất hiện từ những năm 30 của thế kỷ XX ở những tập đoàn nổi tiếng và lâu đời. Vụ tách cổ phiếu sớm nhất diễn ra tại IBM vào tháng 2-1926 với tỷ lệ cứ 3:1. Vào tháng 4 cùng năm công ty năng lượng Edison ở Anh cũng tiến hành tách cổ phiếu với tỷ lệ cao hơn 4:1. Sau đó là đến năm 1956 hãng Disney cũng thực hiện vụ tách cổ phiếu lần đầu tiên với tỷ lệ 2:1; tiếp theo đó là nhà khổng lồ Ford Motor vào năm 1962, Texas Instruments tháng 11/1963, tập đoàn PepsiCola năm 1967... Thị trường chứng khoán thế giới đã đi trước Việt Nam hàng nửa thế kỷ, và nghiệp vụ tách gộp cổ phiếu cũng xuất hiện sớm hơn ở Việt Nam bằng đó thời gian.

Diễn biến giá cổ phiếu quanh thời điểm chia tách thường trải qua năm giai đoạn:

Giai đoạn 1: Trước khi công bố thông tin chia tách, một số nhà đầu tư có thông tin nội gián hoặc nghe ở đâu đó và mua cổ phiếu vào. Lúc đó giá cổ phiếu chưa lên mạnh.

Giai đoạn 2: Khi thông tin chia tách được chính thức công bố, lúc đó nhiều nhà đầu tư bắt đầu mua vào và làm giá cổ phiếu tăng mạnh.

Giai đoạn 3: Khi giá cổ phiếu tăng mạnh, đến một lúc nào đấy thì nhà đầu tư ngắn hạn chợt nhận thấy đã thoả mãn với kỳ vọng và bán ra. Lúc này giá cổ phiếu đi xuống.

Giai đoạn 4
: Đến thời gian cận kề chia tách, các nhà đầu tư nhận thấy đến thời điểm chia tách thì lại lao vào mua. Lúc này có sự tham gia của các nhà đầu tư mới và các nhà đầu tư ngắn hạn quay trở lại khiến giá lại tăng mạnh.

Giai đoạn 5
: Ngay sau khi chia tách, giá cổ phiếu có sự điều chỉnh thấp nên thu hút thêm nhiều nhà đầu tư mới mua vào khiến giá có thể cao lên một chút rồi sau đó giá lại đi xuống. Lúc này, giá cổ phiếu sẽ đi dần vào sự ổn định để chờ đợi những thông tin mới.

Cổ phiếu thưởng là cổ phiếu được chia theo cổ tức. Cổ phiếu thưởng không được coi là cổ tức thực sự bởi vì cổ tức này không được thanh toán bằng tiền. Việc chia cổ tức bằng cổ phiếu chỉ làm tăng đến số lượng cổ phiếu lưu hành mà các cổ đông nắm giữ. Chính vì thế, nó làm giảm giá trị của mỗi cổ phiếu sau khi chia.

Bản chất câu chuyện cổ phiếu thưởng là công ty giữ lợi nhuận để lại, là thu nhập chưa phân phối của cổ đông hiện hữu, để tái đầu tư, thông qua hình thức bỏ vào vốn chủ sở hữu và phát hành thêm cổ phiếu. Việc này thường được công ty thực hiện khi cổ phiếu bị định giá cao hơn giá trị thực tế. Hình ảnh ép cổ đông phải mua là rất đúng, vì rõ ràng nếu không mua để bình quân giá, nhà đầu tư có nguy cơ mắc kẹt ở mức giá cao hơn. Giá cổ phiếu đương nhiên giảm, vì giá phát hành cổ phiếu thưởng thường rẻ hơn thị giá.

Như năm nay STB sẽ tăng vốn từ 6.700 tỉ đồng lên 9.179 tỉ đồng bằng cách trả cổ tức bằng cổ phiếu 15%/vốn cổ phần, phát hành thêm cho cổ đông hiện hữu 20% vốn cổ phần, với giá 12.000 đồng/CP theo tỷ lệ 10:2, và 2% phát hành cho cán bộ cốt cán trong ngân hàng. Hoặc TS4 phát hành hơn 2,8 triệu cổ phiếu với mức giá 20.000 đồng/CP cho cổ đông hiện hữu với tỷ lệ 3:1. PHT dự kiến quý 1 phát hành thêm 9 triệu CP tăng vốn điều lệ, trong đó chào bán 2,75 triệu cổ phiếu với giá 20.000 đồng/CP với tỷ lệ phân phối 4:1. Vincom phát hành thêm khoảng 400 tỉ đồng cho cổ đông hiện hữu theo tỷ lệ 1.000:202, với giá bằng mệnh giá…

Tỉnh ngộ dần sau cơn điên

TTCK Việt Nam với khối lượng giao dịch ở qui mô nhỏ dễ dàng nhạy cảm với một đột biến về cung hoặc cầu. Trước đây, việc chia tách cổ phiếu cho cổ đông của REE hay SAM đều tạo nên một khối lượng cung đột biến, làm cho giá cổ phiếu bị giảm ngay sau khi chia tách.  Khi thị trường suy thoái thì lượng cầu yếu hơn nhiều so với lượng cung và khi doanh nghiệp có kế hoạch chia tách, thưởng, tức là tăng lượng cung. Và theo lý thuyết cơ bản khi lượng cung lớn hơn lượng cầu thì tất yếu giá phải giảm. Nhà đầu tư và thị trường đã chứng kiến việc giá giảm mạnh của nhiều cổ phiếu khi gần đến ngày chốt quyền và sau khi chốt quyền. Việc phản ứng của thị trường như vậy đã khiến không ít các nhà đầu tư thua lỗ do mua vào ở giá cao khi cổ phiếu này gần đến ngày chốt quyền. Diễn biến giá chẳng những không tăng mà còn ngày càng giảm khi đến sát ngày chốt quyền, buộc họ phải bán đi với mức lỗ lớn hoặc trở thành nhà đầu tư dài hạn bất đắc dĩ.

Thăng trầm trên thị trường chứng khoán trong ba năm qua, ít nhiều, giúp nhà đầu tư hiểu ra rằng, trả cổ tức bằng cổ phiếu hay cổ phiếu thưởng, thực chất là nồi cháo pha loãng. Chia tách cổ phiếu cũng chỉ là đem tiền mình từ túi to chia ra nhiều túi nhỏ… vẫn của mình! Tất nhiên, nồi cháo pha có ngon hay không phụ thuộc vào chiến lược phát triển và khả năng sử dụng đồng vốn có hiệu quả. Do vậy, trong mùa đại hội năm nay, họ bắt đầu lên tiếng về kế hoạch sử dụng vốn như một vài cổ đông của Sacombank: họ bày tỏ mong muốn được nhận cổ tức bằng tiền mặt thay vì cổ phiếu, cũng như việc phát hành cổ phiếu tăng vốn gây ít nhiều khó khăn cho họ.

Thông thường, các doanh nghiệp khi tăng vốn có thể có được nguồn thặng dư tốt nhất bằng cách chào bán riêng lẻ với mức giá cạnh tranh cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên, đầu năm nay nghị định số 1/2010 về chào bán cổ phần riêng lẻ quy định, số lượng nhà đầu tư được chào bán phải dưới 100 nhà đầu tư (không phải là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp) và hạn chế chuyển nhượng cổ phần tối thiểu trong vòng một năm kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán.

Thời gian buộc phải nắm giữ khá dài không kích thích người mua, các công ty khó tìm được nhà đầu tư thoả điều kiện, trừ phi nhà đầu tư chiến lược chủ động tìm tới, một nhà tư vấn tài chính nhận xét: Với một nhà đầu tư, tổng lợi nhuận (TSR) một cổ phiếu đem lại trong một năm có thể tính theo lợi tức nhận được và thị giá cổ phiếu thay đổi trong năm. Từ cách tiếp cận này, báo cáo đánh giá về tổng lợi nhuận do công ty cổ phần StoxPlus công bố trung tuần tháng 3, cho thấy, trong năm 2009, các cổ phiếu có mức vốn hoá lớn chỉ mang lại 27% lợi nhuận cho nhà đầu tư, thấp hơn mức trung bình 61% của VN-Index. Thậm chí tổng lợi nhuận của nhóm ngân hàng, theo báo cáo này, giảm 11,3%. Báo cáo chỉ ra: “Tác động của việc chi trả cổ tức bằng tiền tác động lên việc tăng giá cổ phiếu lớn hơn dự đoán”. Theo đó, cổ phiếu có mức tăng giá mạnh đều có tỷ lệ chi trả cổ tức cao hơn. 66 công ty ở sàn TP.HCM không trả cổ tức bằng tiền mặt, chỉ đem lại cho cổ đông tổng lợi nhuận 4% trong khi các công ty chi trả cổ tức bằng tiền mang lại tổng lợi nhuận 112%.

Hiện tôi chưa tin lắm vào khả năng hấp thụ của thị trường về những cổ phiếu mới này. Đây là một lý do khiến đa số công ty có kế hoạch phát hành bằng mệnh giá tăng vốn, một cách “ép” cổ đông phải mua”, ông Dominic Scriven, tổng giám đốc Dragon Capital nói. Trong bối cảnh bức tranh chính sách tiền tệ chưa rõ, lãi suất ngân hàng đang ở mức 17 – 18%/năm, chỉ số giá tiêu dùng hai tháng đầu năm khá cao, thanh khoản ngân hàng chưa ổn định… nhà đầu tư chưa sẵn sàng mua cổ phiếu phát hành mới mà mong muốn nắm giữ tài sản có tính thanh khoản cao. “Vì vậy, với họ tiền mặt vẫn đứng đầu, thay vì phải nắm giữ cổ phiếu”, ông nói.

Xét theo bối cảnh "khát vốn" của DN Việt nam hiện nay, việc tham gia trên TTCK là cần thiết nhưng không phải là tiên quyết. Nếu việc chia tách cổ phiếu nhằm tạo động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp thì đó là một việc nên làm. Còn nếu việc chia tách cổ phiếu chỉ là làm cho giá cổ phiếu giảm xuống để tạo cho việc mua bán trên thị trường chứng khoán được dễ dàng hơn thì đây chưa phải lúc. Vấn đề quan trọng và trước tiên hiện nay là mang lại sự phát triển ổn định cho công ty trước khi tìm kiếm lợi nhuận từ chênh lệch giá trên thị trường.

Tuy nhiên, với dự báo khả quan về tăng trưởng kinh tế, tốc độ phát triển mạnh của các cổ phiếu niêm yết thì tôi cho rằng, nhà đầu tư không nên phớt lờ thông tin chia tách mà đây là cơ hội không phải tranh mua các cổ phiếu tốt, có vị thế cao trong ngành mà lại có thông tin chia tách, quyền mua với một kế hoạch huy động và sử dụng vốn vào các dự án khả thi.
www.SAGA.vn - link_stock

Cổ phiếu thưởng: Lấy của mình thưởng cho... mình

Sau một thời gian dài trầm lắng, làn sóng chia cổ phiếu thưởng lại xuất hiện trên thị trường chứng khoán.

Nhiều nhà đầu tư - dù trước đó đã thua lỗ đến sạt nghiệp - vẫn đua theo trào lưu và quên luôn bài học “vỡ lòng” về đầu tư đó.

Các doanh nghiệp khi chọn hình thức chia thưởng cổ phiếu có muôn vàn lý do. Có doanh nghiệp chia thưởng trong năm 2009 nhằm hỗ trợ cổ đông không phải chịu thuế thu nhập cá nhân. Nhưng cũng có những doanh nghiệp chọn hình thức này để tăng vốn điều lệ, từ đó tăng năng lực tài chính và có cơ hội tiếp cận khoản vay lớn hơn để thực hiện các dự án lớn...

Còn về phía thị trường, nhất là trong giai đoạn thị trường khởi sắc, thông tin chia thưởng cổ phiếu được xem như một lực đỡ quan trọng cho giá chứng khoán tăng hàng ngày.

Đối với những cổ phiếu có thị giá cao, việc chia tách sẽ gia tăng tính thanh khoản do giá cổ phiếu đã được điều chỉnh giảm theo tỷ lệ chia thưởng. Những nhà đầu tư ít vốn sẽ có cơ hội đầu tư khi có cảm giác cổ phiếu đã rẻ đi. Việc cho phép nhiều nhà đầu tư có mức tiền vừa phải sẽ tham gia nhiều hơn, làm tăng cầu chứng khoán và khi cầu chứng khoán tăng sẽ tác động làm tăng giá chứng khoán.

“Trong chừng mực nào đó, việc phát hành cổ phiếu thưởng giống như doanh nghiệp chia nhỏ cổ phần để giá mỗi cổ phiếu sau khi chia nhỏ sẽ giảm xuống, tạo tính thanh khoản trên thị trường. Thưởng cổ phiếu là một nghiệp vụ làm tăng số lượng cổ phiếu, chứ không làm gia tăng giá trị vốn cổ phần.

Nói cách khác, về phương diện hạch toán kế toán, đó chẳng qua là một bút toán chuyển từ tài khoản thặng dư vốn - capital surplus (có công ty lấy từ quỹ đầu tư phát triển) sang vốn điều lệ (capital stock - tính trên mệnh giá) của bảng cân đối kế toán một công ty. Như vậy, việc tăng giá từ thông tin này cũng chỉ dừng lại ở một mức độ hợp lý nhờ tính thanh khoản của cổ phiếu cao hơn trước”, một chuyên gia chứng khoán cho biết.

Dễ gây hiểu lầm

Theo ông Lưu Trung Dũng, sáng lập viên Công ty Cổ phần Đào tạo và Tư vấn đầu tư (DoBF), khái niệm “cổ phiếu thưởng” bấy lâu cũng đã gây hiểu lầm đối với nhiều người ngay cả trong giới đầu tư. Tuy nhiên, về lâu về dài cũng nên có một khái niệm thích hợp hơn để gọi số cổ phiếu này.

Khi thưởng cổ phiếu cho cổ đông, doanh nghiệp thường sử dụng dùng nguồn hình thành từ vốn thặng dư (số tiền chênh lệch giữa giá bán và mệnh giá khi doanh nghiệp phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ) và lợi nhuận tích lũy lại qua các năm (giống như khi trả cổ tức bằng cổ phiếu) để chuyển thành vốn điều lệ. Số lượng cổ phiếu của doanh nghiệp tăng lên đồng nghĩa với việc vốn điều lệ tăng lên nhưng giá trị của doanh nghiệp vẫn giữ nguyên bởi nguồn thặng dư vốn và lợi nhuận giữ lại bị giảm đi tương ứng.

Điều đó cho thấy rằng, giá trị tài sản của mỗi cổ đông cũng không hề tăng lên, mặc dù số lượng cổ phiếu trong tài khoản của mình tăng lên. Việc doanh nghiệp công bố thưởng cổ phiếu cho cổ đông chính là dùng tài sản của cổ đông thưởng cho chính các cổ đông đó. Mà doanh nghiệp là của các cổ đông. Nên, nhìn từ góc độ cổ đông thì đó là việc “tự thưởng”, bớt một phần tài sản của mình để thưởng lại cho mình.

Vì lẽ đó, nên ngay sau ngày chốt danh sách để nhận cổ phiếu thưởng, sở giao dịch chứng khoán luôn điều chỉnh giá tham chiếu của cổ phiếu giảm tương ứng để giá trị tài sản mà nhà đầu tư có trước và ngay sau thời điểm chốt danh sách nhận thưởng không hề thay đổi.

Ông Dũng cũng đưa ra một ví dụ cụ thể như: doanh nghiệp thông báo thưởng cổ phiếu cho cổ đông với tỷ lệ 1:1, cổ đông sở hữu 1 cổ phiếu được thưởng thêm 1 cổ phiếu. Giá cổ phiếu tại ngày giao dịch chốt quyền nhận thưởng là 20.000 đồng/cổ phiếu. Vào ngày giao dịch hôm sau, giá tham chiếu của cổ phiếu không phải là 20.000 đồng mà sẽ được sở/trung tâm giao dịch điều chỉnh xuống còn 10.000 đồng/cổ phiếu.

“Việc này được hình dung như cắt một cái bánh làm đôi, giữ phần bên trái và cầm phần bên phải lên, rồi đặt lại chính vị trí cũ”, ông Dũng nói.

Nên lưu ý điều gì?

Cuối tháng 10 vừa qua, Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính (VAFI) đã công bố một bản báo cáo đánh giá các tác động của việc chia cổ phiếu thưởng hiện nay trên thị trường. Theo VAFI, khi hội đồng quản trị quyết định tăng vốn điều lệ bằng hình thức trả cổ tức bằng cổ phiếu hay chia cổ phiếu thưởng thì doanh nghiệp đó phải thực sự còn nhiều tiềm năng phát triển ở những ngành nghề kinh doanh cốt lõi.

Ngoài ra, việc chia cổ phiếu thưởng hay trả cổ tức bằng cổ phiếu như là một cách để doanh nghiệp tránh bị “nhòm ngó” và mang tiếng trả cổ tức tiền mặt cực kỳ cao. Theo thống kê của VAFI, đối với những loại cổ phiếu tăng trưởng liên tục, nếu doanh nghiệp không thực hiện tăng vốn điều lệ theo hình thức trả cổ phiếu thưởng hay trả cổ tức bằng cổ phiếu thì tỷ lệ trả cổ tức bằng tiền mặt có thể sẽ lên tới 500%, thậm chí là 1.000%, 2.000%...

“Trên thực tế chúng ta ít gặp những mức chia cổ tức này tại các công ty đại chúng, nếu doanh nghiệp nào thực hiện thì sẽ bị nổi tiếng ngay, đi cùng với sự “nổi tiếng”, có thể kèm theo sự chú ý và phiền toái”, đại diện VAFI giải thích thêm.

Bên cạnh đó, theo VAFI vẫn có những doanh nghiệp lợi dụng việc chia thưởng cổ phiếu để làm giá. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư phải hết sức lưu ý bởi doanh nghiệp khó có thể tiếp tục tăng trưởng trong tương lai hoặc tỷ lệ tăng trưởng hàng năm thấp do điều kiện khách quan hoặc do trình độ quản trị doanh nghiệp như: doanh thu lợi nhuận không tăng hoặc tăng ở tỷ lệ thấp, đồng thời khó có khả năng tăng tỷ lệ trả cổ tức bằng tiền mặt hoặc khoản lợi nhuận dành trả cổ tức bằng tiền mặt có thể thấp hơn so với trước khi thực hiện.

Hoặc có những trường hợp, sau khi tăng vốn điều lệ thì gặp khó khăn trong kinh doanh, hoặc đã gặp khó khăn trong kinh doanh nhưng vẫn tăng vốn điều lệ bằng hình thức chia tách để nhằm đẩy giá cổ phiếu lên, phục vụ lợi ích cho cổ đông nội bộ.

Đây cũng là một thực tế đã xảy ra tại một số doanh nghiệp niêm yết trong thời gian qua. Sau khi tăng vốn điều lệ thì lợi nhuận doanh nghiệp giảm đi, thậm chí thua lỗ nặng, có một số trường hợp thua lỗ nặng, làm giảm vốn điều lệ do doanh nghiệp đã sử dụng hết các khoản thặng dư vốn và lợi nhuận để lại để tăng vốn điều lệ. Hoặc sau một thời gian làm các động tác chia tách, lợi nhuận của doanh nghiệp ngày càng giảm, khiến cho tỷ suất lợi nhuận trên vốn điều lệ mới rất thấp, đi kèm với đó là mức chia cổ tức trên vốn điều lệ mới rất thấp...

Vậy nhà đầu tư nên chú ý điều gì? Theo khuyến nghị của VAFI, nhà đầu tư nên xem xét giá thị trường của cổ phiếu chuẩn bị chia tách trong tương quan thị trường và tính toán lợi nhuận tương lai của doanh nghiệp để xác định chỉ số P/E, EPS... Nếu các chỉ số tài chính hiện tại và tương lai là cao thì không nên mua.
Nguồn: http://vneconomy.vn/2009110410039179p0c7/co-phieu-thuong-lay-cua-minh-thuong-cho-minh.htm

Thứ Năm, 31 tháng 3, 2011

Are We Buying High All Over Again?

February 22, 2011, 12:12 pm

Are We Buying High All Over Again?

Carl Richards
Carl Richards is a certified financial planner in Park City, Utah. His sketches are archived here on the Bucks blog and on his personal Web site, BehaviorGap.com.
We’re doing it again: Buying stocks after big gains in the markets.
In 2008, 2009 and most of 2010, mutual fund investors in almost every month took more money out of stock mutual funds than they added. Then, in January, someone hit a switch.
Investors decided that it was time to get back into the stock market. Keep in mind this decision came after an almost 100 percent gain from the market bottom in 2008. So in December we pulled $10.6 billion out of equity mutual funds, and in January we poured an estimated $30 billion into the market.
Do you see the problem here?
Unfortunately, investors are repeating past bad behavior. We broke records with market inflows in December 1999 and for the first three months of 2000, right after an enormous run-up in technology stocks and right before a nasty decline. We have an uncanny ability to buy high and sell low, the opposite of what we are supposed to be doing.
If you’re still not convinced, let’s take a look at the S&P 500. On Feb. 16, 2011, the S&P 500 hit 1,334. That number matters because it represents a doubling of value from the previous market low of 666.79 on March, 6, 2009. Great news, right? Do the math:
…the S&P took less than 23 months to rise 100 percent, which appears to be its fastest double since S&P started publishing the index in 1957.
So does it really make sense to chase the market at this point?
The tricky thing is that we don’t know how the market will do over the next six months, the rest of the year and beyond. Maybe the $30 billion that poured into equity mutual funds in January is just part of a rational asset allocation decision, but our past bad behavior points to something else.
Unfortunately, we’re hardwired to want to move away from things that cause us pain and move closer to things that give us pleasure or a sense of security. From that perspective, wanting to sell when everyone around us is panicked and fearful and buy when everyone starts feeling better and things have cleared up makes perfect sense.
But what does cleared up mean? Does it mean people are less fearful? Does it mean the news reports are positive? Does it mean our friends are investing again?
Keeping all of these signs in mind, do you you think the market will move higher or lower when things clear up? Higher, of course. So this decision to wait until things clear up sounds like a plan to sell low and buy high on purpose. It’s a bad idea and an avoidable mistake.
Another reason we may jump back into the market is that we can’t take the pain of watching it rise day after day. Maybe in early 2009, you decided that you were done with the stock market forever. Then as the days went by and sustained positive returns emerged, you started feeling like you were missing out. Your friends were talking about investing it again. It was killing you. “O.K.,” you said to yourself, “maybe it’s about time to get back in.”
So how do we stop the madness and avoid the same mistakes again next time the market goes down? (And it will go down again, I promise.)
1) Have a plan. I am not talking about one of those worthless, two-inch-thick books. I’m talking about the process of sitting down and deciding where you are today, where you want to be in the future and how you plan to get there.
2) Decide if that plan means that you need to invest in stocks in the first place. It might not.  Your plan could involve saving more, adjusting your goals or retiring later. The rate of return you need to achieve your goals is just one variable to consider.
3) Find investments to populate the plan. This comes at the end of the process and is certainly not the first part. After all, you would never spend time deciding what car to drive on a trip until after you decided where you were going.
4) Make changes only if the plan changes. Your plan, and not what the market is doing, should drive your behavior.
We don’t know what comes next for the market, so we need to focus instead on the process of getting from where we are today to where we want to go. It’s the only part of the process that may give us some control.

Useful Comments:
- The stock market is a casino with the rules in favor of the big boys who can execute trades in a millisecond. Unless an ordinary investor has a big ego about their decision-making powers, they should stay away from it.

- I think the most salient bit of advice you give is the one regarding the "two-inch thick" plans--which are always just a series of restatements of the data you gave the "planner." The best questions come from someone not afraid to challenge you...with something other than incomprehensible numbers: Why do you want to retire to Florida? Why do you want to pay all your kid's education loans? You may have to work another two years, you know, to get what you want. Buying a new car at that price is crazy, isn't it? You are right on that point, in spades.
As far as stock prices go, though, I think that you are overly pessemistic. They are clearly going to be impacted, and heavily, by the Mid-East troubles and the fears of oil shortages and their impacts in India and China. You could easily see DOW 11,000 by mid-March. Maybe 10,500. But most of that, like S&P 667, will be over-reaction. The S&P was grossly undervalued at 667--and probably is overvalued at 1250 just as the DOW is at 12,500. But neither is now as overvalued as it was then undervalued. You see a huge run up in that S&P from 667. I see an inevitable correction to 950 (where smart people made money) and then some "exuberance" on top of that.

Given the Mid-East, I'll sit and wait a bit. Gas at $4? I'll drive less.

Thứ Năm, 17 tháng 3, 2011

ROA and ROE: Give Clear Picture Of Corporate Health

Cả hai chỉ số này đều đo lường mức độ thu hồi (return) từ các khoản đầu tư (investment) và cùng nhau tạo nên một bức tranh rõ ràng về hiệu quả công ty

ROE: lãi trên vốn cổ đông là chỉ số quan trọng cần xem đầu tiên. Nó nói lên mức độ hiệu quả mà công ty sử dụng đồng vốn của cổ đông. Nếu lớn có nghĩ là công ty sử dụng vốn hiệu quả
Công thức tính: thu nhập ròng (net income)/tổng vốn cổ đông (trung bình)


         Annual Net Income           
Average Shareholders' Equity
Let's calculate ROE for the fictional company Ed's Carpets. Ed's 2009 income statement puts its net income at $3.822 billion. On the balance sheet, you'll find total stockholder equity for 209 was $25.268 billion; in 2008 it was $6.814 billion.

To calculate ROE, average shareholders' equity for 2009 and 2008 ($25.268bn + $6.814bn / 2 = $16.041 bn), and divide net income for 2009 ($3.822 billion) by that average. You will arrive at a return on equity of 0.23, or 23%. This tells us that in 2009 Ed's Carpets generated a 23% profit on every dollar invested by shareholders.
Rất nhiều nhà đầu tư tìm kiếm công ty với chỉ số ROE ít nhất 15% (15% as their minimum acceptable ROE when evaluating investment candidates)
ROE nên được hiểu như thế nào?
ROE là một chỉ báo hữu ích bởi vì nó cho biết khả năng sinh lợi của công ty mag không cần phải bổ sung thêm vốn. Một chỉ số ROE tăng đều đặn là dấu hiệu cho thấy ban lãnh đạo công ty đang đem lại cho cổ đông nhiều tiền hơn. Tuy nhiên, ROE cũng chỉ ra công ty ko thể vượt qua mức tăng trưởng của chỉ số ROE nếu như ko bổ sung thêm vốn (vay hoặc phát hành thêm cổ phiếu). Nhưng việc tăng vốn sẽ có giá của nó: phí đi vay sẽ làm tăng nợ và giảm  net income cũng như tăng lượng phát hành sẽ làm giảm thu nhập trên mỗi cổ phiếu (earnings per share) do việc tăng số lượng cổ phiếu phát hành shares outstanding. Do vậy, ROE là giới hạn tốc độ tăng trưởng của công ty.
ROE không phải chỉ số hoàn hảo
ROE thậm chí còn tăng khi thương số của công thức - vốn cổ đông giảm hoặc phân bổ một khoản chi phí lớn cho nhiều năm hoặc mua lại cổ phiếu làm cổ phiếu quỹ. Ngoài ra ROE không cho biết nếu công ty có một khoản nợ lớn quá mức hoặc đang vay mượn thêm thay vì phát hành cổ phiếu. Nên nhớ rằng, vốn cổ đông là loại tài sản phải trả sau nợ (kể cả ngắn và dài hạn). Do đó, nợ tăng -> vốn giảm -> ROE tăng. Hơn thế, ROE quá cao sẽ dẫn đến một số vấn đề trong tương lai
-----------------
If, for instance, a company takes a large write-down, the reduction in income (ROE's numerator) occurs only in the year that the expense is charged; the write-down therefore makes a more significant dent in shareholder equity (the denominator) in the following years, causing an overall rise in the ROE without any improvement in the company's operations. Having a similar effect as write-downs, share buy-backs also normally depress shareholders' equity proportionately far more than they depress earnings. As a result, buy-backs also give an artificial boost to ROE. (For related reading, see How Buybacks Warp The Price-To-Book Ratio.)

Suppose that two firms have the same amount of assets ($1,000) and the same net income ($120) but different levels of debt: Firm A has $500 in debt and therefore $500 in shareholder's equity ($1,000 - $500), and Firm B has $200 in debt and $800 in shareholder's equity ($1,000 - $200). Firm A shows an ROE of 24% ($120/$500) while Firm B, with less debt, shows an ROE of 15% ($120/$800). As ROE equals net income divided by the equity figure, Firm A, the higher-debt firm, shows the highest return on equity.

This company looks as though it has higher profitability when really it just has more demanding obligations to its creditors. Its higher ROE may therefore be simply a mask of future problems. For a more transparent view that helps you see through this mask, make sure you also examine the company's return on invested capital (ROIC), which reveals the extent to which debt drives returns.

Another pitfall of ROE concerns the way in which intangible assets are excluded from shareholder's equity. Generally conservative, the accounting profession normally omits a company's possession of things like trademarks, brand names, and patents from asset and equity-based calculations. As a result, shareholder equity often gets understated in relation to its value, and, in turn, ROE calculations can be misleading.

A company with no assets other than a trademark is an extreme example of a situation in which accounting's exclusion of intangibles would distort ROE. After adjusting for intangibles, the company would be left with no assets and probably no shareholder equity base. ROE measured this way would be astronomical but would offer little guidance for investors looking to gauge earnings efficiency.

Conclusion
Let's face it, no single metric can provide a perfect tool for examining fundamentals. But contrasting the five-year average ROEs within a specific industrial sector does highlight companies with competitive advantage and with a knack for delivering shareholder value.
Think of ROE as a handy tool for identifying industry leaders. A high ROE can signal unrecognized value potential, so long as you know where the ratio's numbers are coming from.

ROA : lãi trên tổng tài sản là một chỉ số khác đo lường hiệu quả quản lý của doanh nghiệp. Nó nói lên mức độ kiếm lời trên mỗi đồng tài sản của doanh nghiệp (bao gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, khoản phải thu, BDDS, thiết bị máy móc, tài sản,..)



         Annual Net Income           
Total Assets

Some analysts take earnings before interest and taxation, and divide over total assets:
ROA = EBIT/Total Assets
This is a pure measure of the efficiency of a company in generating returns from its assets, without being affected by management financing decisions.
Let's look at Ed's again. You already know that it earned $3.822 billion in 2009, and you can find total assets on the balance sheet. In 2009, Ed's Carpets' total assets amounted to $448.507 billion. Its net income divided by total assets gives a return on assets of 0.0085, or 0.85%. This tells us that in 2009 Ed's Carpets earned less than 1% profit on the resources it owned.

Với ví dụ trên, ROA nói lên câu chuyện hoàn toàn khác. Chỉ một vài nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp cân nhắc các cổ phiếu với ROA < 5%.

Either way, the result is reported as a percentage rate of return. An ROA of, say, 20% means that the company produces $1 of profit for every $5 it has invested in its assets. You can see that ROA gives a quick indication of whether the business is continuing to earn an increasing profit on each dollar of investment. Investors expect that good management will strive to increase the ROA - to extract greater profit from every dollar of assets at its disposal.
Một chỉ số ROA đi xuống có thể là dấu hiệu rắc rối, đặc biệt đối với các cty tăng trưởng nhanh. Nỗ lực tăng trưởng bán hàng thường dẫn đến đầu tư vào tài sản bao gồm các khoản phải thu, hàng tồn kho, thiết bị và nhà xưởng. Một khi nhu cầu giảm sẽ làm cho các cty này bị lâm vào tình trạng đầu tư quá mức vào tài sản và ko thể bán được hàng -> thảm họa tài chính
Hàng rào ROA - ROA Hurdles


Nên so sánh ROA với các chỉ số lãi suất đi vay của các khoản nợ, ROA phải lớn hơn lãi suất đi vay mới có ý nghĩa. Tương tự, đo lường ROA xem có lớn hơn chi phí vốn (cost of capital) bỏ ra để xem kế hoạch tăng trưởng, sát nhập, mở rộng của công ty thực sự hiệu quả ko, đáng làm ko (đầu tư nhiều nhưng thu về ko đáng kể).
--------------
Expressed as a percentage, ROA identifies the rate of return needed to determine whether investing in a company makes sense. Measured against common hurdle rates like the interest rate on debt and cost of capital, ROA tells investors whether the company's performance stacks up.
Compare ROA to the interest rates companies pay on their debts: if a company is squeezing out less from its investments than what it's paying to finance those investments, that's not a positive sign. By contrast, an ROA that is better than the cost of debt means that the company is pocketing the difference.
Similarly, investors can weigh ROA against the company's cost of capital to get a sense of realized returns on the company's growth plans. A company that embarks on expansions or acquisitions that create shareholder value should achieve an ROA that exceeds the costs of capital; otherwise, those projects are likely not worth pursuing. Moreover, it's important that investors ask how a company's ROA compares to those of its competitors and to the industry average. (Read Looking Deeper Into Capital Allocation for more information.)
-------------------------
Phân tích kỹ hơn về ROA
Có thể viết lại công tức ROA thành
ROA = (Net Income/Revenue) X (Revenues/Average Total Assets)
Nếu ROA tăng, hoặc thu nhập ròng tăng hoặc tổng tài sản TB giảm. Để tăng ROA: hoặc tăng lợi nhuận biên hoặc hiệu quả hơn là quay vòng tài sản tối đa để tăng lượng bán hàng
--------------
There is another, much more informative way to calculate ROA. If we treat ROA as a ratio of net profits over total assets, then two telling factors determine the final figure: net profit margin (net income divided by revenue) and asset turnover (revenues divided by average total assets).
A company can arrive at a high ROA either by boosting its profit margin or, more efficiently, by using its assets to increase sales. Say a company has an ROA of 24%. Investors can determine whether that ROA is driven by, say, a profit margin of 6% and asset turnover of four times, or a profit margin of 12% and an asset turnover of two times. By knowing what's typical in the company's industry, investors can determine whether or not a company is performing up to par.
This also helps clarify the different strategic paths companies may pursue - whether a low-margin, high-volume producer or a high-margin, low-volume competitor.
ROA also resolves a major shortcoming of return on equity (ROE). ROE is arguably the most widely used profitability metric, but many investors quickly recognize that it doesn't tell you if a company has excessive debt or is using debt to drive returns. Investors can get around that conundrum by using ROA instead. The ROA denominator - total assets - includes liabilities like debt (remember total assets = liabilities + shareholder equity). Consequently, everything else being equal, the lower the debt, the higher the ROA. (Read A Breakdown Of Stock Buybacks for more background information.)
A Couple Things to Watch For Still, ROA is far from being the ideal investment evaluation tool. There are a couple of reasons why it can't always be trusted. For starters, the 'return' numerator of net income is suspect (as always), given the deficiencies of accrual-based earnings and the use of managed earnings.
Also, since the assets in question are the sort that are valued on the balance sheet - namely, fixed assets and not intangible assets like people or ideas - ROA is not always useful for comparing one company against another. Some companies are 'lighter', having their value based on things such as trademarks, brand names and patents, which accounting rules don't recognize as assets. A software maker, for instance, will have far fewer assets on the balance sheet than a car maker. As a result, the software company's assets will be understated, and its ROA may get a questionable boost.
Conclusion
ROA gives investors a reliable picture of management's ability to pull profits from the assets and projects into which it chooses to invest. The metric also provides a good line of sight into net margins and asset turnover - two key performance drivers. ROA makes the job of fundamental analysis easier, helping investors recognize good stock opportunities and minimizing the likelihood of unpleasant surprises.


+ Sự khác biệt ở chỗ các khoản nợ phải trả (Liabilities)
Công thức: assets = liabilities + shareholders' equity
The big factor that separates ROE and ROA is financial leverage (đòn bẩy tài chính), or debt (nợ)

Nếu ko có nợ thì tổng tài sản = vốn cổ đông -> ROA = ROE. Nhưng khi công ty sử dụng đòn bẩy tài chính (tức là đi vay) để mở rộng hoạt động kinh doanh thì ROE sẽ tăng lên so với ROA
----------------------
The balance sheet equation - if expressed differently - can help us see the reason for this: shareholders' equity = assets - liabilities. By taking on debt, a company increases its assets thanks to the cash that comes in. But since equity equals assets minus total debt, a company decreases its equity by increasing debt. In other words, when debt increases, equity shrinks, and since equity is the ROE's denominator, ROE, in turn, gets a boost. At the same time, when a company takes on debt, the total assets - the denominator of ROA - increase. So, debt amplifies ROE in relation to ROA.

Ed's balance sheet should reveal why the company's return on equity and return on assets were so different. The carpet-maker carried an enormous amount of debt - which kept its assets high while reducing shareholders' equity. In 2009, it had total liabilities that exceeded $422 billion - more than 16 times its total shareholders' equity of $25.268 billion.

Because ROE weighs net income only against owners' equity, it doesn't say much about how well a company uses its financing from borrowing and bonds. Such a company may deliver an impressive ROE without actually being more effective at using the shareholders' equity to grow the company. ROA - because its denominator includes both debt and equity - can help you see how well a company puts both these forms of financing to use.

Kết luận: hãy xem xét cả ROE và ROA.
Nếu nợ ở mức hợp lý (xem thêm một số chỉ số căn bản về nợ khác như hệ số thanh toán nhanh, tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu...) và ROA hợp lý thì chỉ số ROE cao thể hiện khả năng quản lý tốt. Nhưng nếu ROA thấp hoặc công ty mắc nợ nhiều thì ROE cao sẽ làm cho nhà đầu tư có ấn tượng sai về triển vọng công ty.
Nguồn: http://www.investopedia.com/articles/basics/05/052005.asp
http://www.investopedia.com/articles/fundamental/03/100103.asp
http://www.investopedia.com/articles/fundamental/04/012804.asp

Thứ Ba, 22 tháng 2, 2011

Warren Buffett tiết lộ bí mật đầu tư mới

Tỉ phú Warren Buffett, ông chủ Quỹ Berkshire Hathaway Inc. cho biết ông đánh giá các doanh nghiệp trên khả năng tăng giá và thậm chí đôi khi còn không xem ai là người đang lãnh đạo doanh nghiệp.
"Quyết định quan trọng nhất trong việc đánh giá một doanh nghiệp là sức mạnh về giá," Buffet trả lời Ủy ban Điều tra Khủng hoảng Tài chính trong một cuộc phỏng vấn được đưa ra tuần trước. Buffett còn nói: "Nếu bạn có sức mạnh để tăng giá mà không làm mất thị phần vào tay đối thủ cạnh tranh thì bạn có một doanh nghiệp tốt. Và nếu bạn phải cầu nguyện trước khi tăng giá 10% thì bạn có một doanh nghiệp rất tệ."
Ông Buffett, 80 tuổi, đã tích lũy được khối tài sản lớn thứ ba thế giới thông qua sự nghiệp chọn mua cổ phiếu và tiếp quản những công ty bằng cách mua lại đa số cổ phiếu của họ. Ông đã mua những công ty đường sắt và sản xuất điện vốn là những công ty với sức mạnh giá có được từ sự khan hiếm trong cạnh tranh đối với khách hàng. Buffett cũng nắm cổ phần trong những công ty như Coca-Cola Co. và Kraft Foods Inc., vốn dựa trên sự hấp dẫn của thương hiệu để thu hút và giữ khách hàng.
Nhà đầu tư huyền thoại này nói trong cuộc phỏng vấn được thực hiện vào ngày 26 tháng 5 tại Omaha, Nebraska rằng: "Doanh nghiệp xuất chúng không đòi hỏi một sự quản lý tốt."
Các điều tra viên của Ủy ban Điều tra Khủng hoảng Tài chính quan tâm tới đầu tư của Buffett vào công ty xếp hạng trái phiếu Moody's. Các nhà lập pháp cho rằng công ty này đã đưa ra những xếp hạng tín dụng thổi phồng trong giai đoạn bùng nổ nhà đất. Buffett nói ông nắm giữ cổ phần trong Moody bởi vì công ty này, cùng với đối thủ Standard & Poor's, một công ty con của McGraw-Hill Cos., đang dẫn đầu thị phần giúp cho hai công ty này linh hoạt trong việc định giá.
Sức mạnh kiểm soát giá
Warren Buffett nói: "Tôi đã không biết gì về việc điều hành quản lý của Moody's. Nếu bạn sở hữu tờ báo duy nhất trong thành phố, trong 5 năm qua và 5 năm tiếp theo, bạn có sức mạnh kiểm soát giá bán và bạn không phải đến văn phòng."
Benjamin E. Hermalin, giáo sư kinh tế học tại trường đại học California, trường kinh tế Berkeley's Haas cho rằng một vị trí thống lĩnh không thể ngăn cản một nhà quản lý tồi phá hủy một công ty theo thời gian.
Hermalin nói: "Nếu bạn có một vị trí thống lĩnh thực sự, bạn có thể tồn tại trong một thời gian dài với sự quản lý kém. Trong thời gian ngắn, tôi sẽ đồng ý với Buffett nhưng trong thời gian dài thì một nhà quản lý giỏi là điều cần được bàn tới."

Burlington Northern Santa Fe, công ty đường sắt mà Buffett mua năm ngoái với giá 26,5 tỷ USD, sở hữu hơn 30.000 dặm đường sắt trên toàn miền tây nước Mỹ, kết nối các nhà sản xuất và phân phối than, ngũ cốc và hàng hóa tiêu dùng. Một công ty điện đặt tại Omaha trực thuộc Berkshire - Công ty năng lượng Trung Mỹ bán điện cho các hộ gia đình tại Great Plains và vận chuyển khí ga tự nhiên từ Wyoming đến California.
Quản lý tốt đôi khi vô nghĩa
Buffett thường xuyên lựa chọn ra và khen ngợi những nhà quản lý trong số hơn 70 công ty của Berkshire. Chủ tịch của Công ty Năng lượng Trung Mỹ David Sokol và Gregory Abel, giám đốc điều hành chi nhánh là "hai nhà quản lý xuất sắc", Buffett nói trong lá thư gửi tới các cổ đông vào năm ngoái.
Buffett chỉ trích CEO Irene Rosenfeld của Kraft năm ngoái vì việc tiếp quản Cadbury Plc và công việc kinh doanh của thương hiệu bánh pizza. Buffett nói trước các cổ đông vào tháng Năm rằng: "Cả hai vụ đó đều ngớ ngẩn." Berkshire là cổ đông lớn nhất của Kraft với cổ phần trị giá 3,3 tỷ USD vào cuối tháng mười hai.
Terry Connelly, chủ nhiệm khoa trường kinh tế Ageno thuộc trường đại học Golden Gate tại San Francisco và cựu giám đốc điều hành tại Salomon Brothers nói: "Trong thời gian ngắn, việc quản lý tốt có thể tạo ra sự tăng giá cổ phiếu nhưng tôi đồng ý với điều Warren nói, đặc biệt là vì quan điểm của ông nhìn vào các nguyên tắc cơ bản. Sự quản lý tốt chẳng thể làm gì với một trường hợp tồi."

Thứ Năm, 10 tháng 2, 2011

Thuật ngữ tài chính, chứng khoán

Thuật ngữ: Beta (Hệ số Beta)

Beta hay còn gọi là hệ số beta, đây là hệ số đo lường mức độ biến động hay còn gọi là thước đo rủi ro hệ thống của một chứng khoán hay một danh mục đầu tư trong tương quan với toàn bộ thị trường

Hệ số beta là một tham số quan trọng trong mô hình định giá tài sản vốn ( CAPM).

Beta được tính toán dựa trên phân tích hồi quy, và bạn có thể nghĩ về beta giống như khuynh hướng và mức độ phản ứng của chứng khoán đối với sự biến động của thị trường. Một chứng khoán có beta bằng 1, muốn ám chỉ rằng giá chứng khoán đó sẽ di chuyển cùng bước đi với thị trường. Một chứng khoán có beta nhỏ hơn 1 có nghĩa là chứng khoán đó sẽ có mức thay đổi ít hơn mức thay đổi của thị trường. Và ngược lại, beta lớn hơn 1 sẽ chúng ra biết giá chứng khoán sẽ thay đổi nhiều hơn mức dao động của thị trường. Ví dụ, nếu beta của một chứng khoán là 1.2, điều đó có nghĩa là nó có biên độ dao động nhiều hơn thị trường 20%.

money.jpg Nhiều cổ phiếu thuộc các ngành cung cấp dịch vụ công ích có beta nhỏ hơn 1. Ngược lại, hầu hết các cổ phiếu dựa trên kỹ thuật công nghệ cao có beta lớn hơn 1, thể hiện khả năng tạo được một tỷ suất sinh lợi cao hơn, những cũng đồng thời tiềm ẩn rủi ro cao hơn.

Thuật ngữ: Chỉ số ROE

ROE (viết tắt của cụm từ return on equity), có nghĩa là lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu. ROE được tính bằng cách lấy lãi ròng sau thuế chia cho tổng giá trị vốn chủ sở hữu dựa vào bảng cân đối tài sản cuối kỳ.

Khi công ty chỉ đạt tỷ lệ ROE tương đương với lãi vay ngân hàng thì ở mức độ đánh giá tương đối, nhà đầu tư hãy xem lại khả năng sinh lời của công ty, vì nếu công ty nào cũng chỉ sinh lời ở mức này thì sẽ không có công ty nào đi vay ngân hàng, bởi lợi nhuận từ vốn vay chỉ đủ để trả lãi vay ngân hàng. Tất nhiên, ở đây chỉ đặt trường hợp công ty chưa vay ngân hàng.

Khi công ty đạt tỷ lệ ROE cao hơn lãi vay ngân hàng thì nhà đầu tư nên tìm hiểu xem công ty đã vay ngân hàng và khai thác hết lợi thế cạnh tranh trên thị trường chưa để có thể đánh giá công ty có tiềm năng tăng tỷ lệ này hay không.
Nếu mở rộng được thị phần thì cần thêm vốn, vốn này có thể vay và công ty có khả năng thu được thêm lợi nhuận sau khi trả lãi vay. Tuy nhiên, khi vay vốn, ngoài việc trả lãi còn phải trả gốc, nên ảnh hưởng nhiều đến yếu tố thanh khoản của công ty. Vì vậy, cân đối vốn vay và vốn cổ đông cũng là bài toán quản lý của công ty.

Thuật ngữ: Thuật ngữ SPO

SPO (viết tắt của cụm từ tiếng Anh Seasoned Public Offering) là thuật ngữ mô tả việc một doanh nghiệp đại chúng phát hành cổ phần rộng rãi cho công chúng sau khi đã tiến hành IPO (chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh Initial Public Offering, có nghĩa là phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu). Nói cách khác, nếu như IPO là thuật ngữ chỉ việc lần đầu tiên doanh nghiệp phát hành cổ phần mới và bán rộng rãi cho công chúng, thì SPO áp dụng cho tất cả các lần phát hành sau đó.

Việc tiến hành SPO thành công hay không phụ thuộc vào cơ chế đợt phát hành và cấu trúc sở hữu mong muốn sau mỗi lần SPO hoặc một loạt đợt SPO; các đợt SPO có tính liên tục không, có đạt mục tiêu huy động theo thời kỳ mong muốn không và có phù hợp với các chiến lược dự án của doanh nghiệp hay không.

Nói cách khác, việc biến công ty thành công ty đại chúng bắt đầu với IPO, còn việc công ty quản trị nguồn vốn tốt hay không thể hiện ở sự thành công của nhiều đợt SPO theo các kế hoạch chiến lược. Một doanh nghiệp IPO thành công nhưng nếu không có khả năng SPO hoặc không có chiến lược phát triển cần tới các đợt SPO tiếp theo thì cũng khó có thể coi là doanh nghiệp có cơ hội tăng trưởng.

Thuật ngữ: Chiết khấu thương phiếu (Commercial Paper Discounting)

Chiết khấu thương phiếu là một hình thức tín dụng của ngân hàng thương mại, thực hiện bằng việc ngân hàng mua lại thương phiếu chưa đáo hạn của khách hàng. Đặc điểm của nghiệp vụ tín dụng này là khoản lãi phải trả ngay khi nhận vốn. Do đó, khoản lợi tức này sẽ được khấu trừ ngay tại thời điểm chiết khấu.

* Ý nghĩa của Chiết khẩu thương phiếu

1/ Đối với người sở hữu thương phiếu:

Giúp cho họ có tiền để đáp ứng nhu cầu thanh toán, biến các thương phiếu chưa đến hạn thanh toán trở thành các phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán.

2/ Đối với ngân hàng:

Chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ tín dụng có đảm bảo mà tài sản đảm bảo là các tài sản có tính thanh khoản cao. Vì vậy, nghiệp vụ này vừa tạo ra tài sản sinh lời cho ngân hàng vừa tạo ra một lực lượng dự trữ để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu thanh toán.

Thuật ngữ: Dự phòng nợ khó đòi (Charge-off)

Thuật ngữ chỉ chi phí trong bản thông báo thu nhập của một công ty. "Dự phòng nợ khó đòi" có 2 loại như sau:

   1. Một khoản nợ được xem là không thể thu về và do đó được xóa. Loại này được coi như "chi phí các khoản nợ xấu" trong báo cáo thu nhập, và loại khỏi bảng cân đối kế toán.
   2. Chi phí bất thường trước đây do một công ty phải gánh chịu có ảnh hưởng tiêu cực đến thu nhập và làm giảm giá trị sổ sách một số tài sản của công ty. Sụt giảm giá trị sổ sách tăng là do sự hư hại của tài sản.

Theo Investopedia:

   1. Các chi phí nợ xấu tăng khi một công ty không có khả năng thu hồi một số khoản phải thu của mình. Khi điều này xảy ra, công ty có rất ít lựa chọn: nó có thể bán khoản nợ xấu đó cho một cơ quan chuyên đòi nợ (thương vụ sẽ được ghi lại trong sổ sách của công ty, nhưng không phải như 1 chi phí), hay chỉ đơn giản xóa nợ và coi đó như một chi phí trong bản báo cáo thu nhập.
   2. Ta thường nghe các công ty tuyên bố rằng: "Chúng tôi sẽ lấy các khoản chi phí trước đây trừ vào thu nhập quý này". Điều đó có nghĩa là một sự kiện bất thường xảy ra và, mặt dù có ảnh hưởng đến thu nhập hiện tại, nó không có vẻ như sẽ xảy ra 1 lần nữa. Kết quả là, công ty sẽ cung cấp chỉ số E/S có tính đến và không tính đến chi phí này.

Thứ Năm, 3 tháng 2, 2011

15 đức tính của một nhà đầu tư thành công

Bạn đã bao giờ ước mình trở thành nhà đầu tư thiên tài như Warren Buffett, Peter Lynch hay George Soros? Điều gì họ đã làm để có được thành công? Dưới đây là những điều cần thực hiện.
> Các tỷ phú tiết lộ danh mục đầu tư
1. Ham học hỏi
Các nhà đầu tư thành công thường học hỏi không ngừng. Họ dành nhiều thời gian để nghiên cứu hơn các nhà đầu tư bình thường. Họ biết rằng kiến thức của mình sẽ không bao giờ là đủ, và do vậy luôn giữ đầu óc thông thoáng để có thể học bất kỳ lúc nào. Họ năng đọc sách, báo, tạp chí và tham gia các buổi hội thảo để tự hoàn thiện chính mình.
2. Luôn chuẩn bị kế hoạch rút lui
Các nhà đầu tư thành công biết rằng việc đầu tư luôn có hai mặt. Tương lai là không thể đoán được và vì vậy họ luôn chuẩn bị trước cho nó. Nhà đầu tư bình thường luôn cố gắng đoán kết quả đầu tư. Nhưng nhà đầu tư thông minh thì làm điều ngược lại, họ chuẩn bị cho cả trường hợp tốt đẹp nhất và tồi tệ nhất.
Đó là lý do tại sao các nhà đầu tư thành công luôn kiếm được tiền khi thị trường đi lên và thậm chí còn kiếm được nhiều hơn khi thị trường đi xuống. Vì vậy, nếu bạn muốn thành công, hãy chuẩn bị kế hoạch rút lui trước khi đầu tư vào bất cứ thứ gì.
3. Kiên nhẫn
Các nhà đầu tư tài ba rất kiên nhẫn. Một khi đã tính toán về vụ đầu tư nào đó, họ luôn sẵn sàng chờ đợi để chắc chắn rằng kế hoạch đó sẽ thành sự thực. Warren Buffet nói: “Tôi chưa bao giờ có ý định kiếm tiền từ thị trường chứng khoán. Tôi chỉ mua vì suy nghĩ rằng họ sẽ đóng cửa thị trường ngay ngày mai và phải đến 5 năm sau mới mở lại”.
4. Kiểm soát cảm xúc tốt
Các nhà đầu tư thực thụ đều biết rằng thị trường lên và xuống chủ yếu do hai yếu tố tình cảm là sự sợ hãi và lòng tham. Các nhà đầu tư bình thường đầu tư dựa vào cảm giác. Nhưng những người thành công thì luôn biết cách kiểm soát tốt cảm xúc của mình. Họ không cho phép những lời nói của các chuyên gia hay nhà tư vấn tài chính ảnh hưởng đến sự lựa chọn và phương pháp đầu tư của họ.
Các nhà đầu tư thành công thường có phản ứng trung lập dù họ được hay mất. Họ không từ bỏ chiến lược đầu tư của mình chỉ vì một vài thất bại và cũng không quá tự tin khi là người chiến thắng. Dù thị trường có như thế nào, thì họ cũng luôn nghĩ cơ hội thắng thua là 50-50.
5. Có chiến lược đầu tư rõ ràng
Mỗi nhà đầu tư đều phải phát triển một chiến lược đầu tư rõ ràng để gắn chặt với nó. Một vài người thành công với chiến lược đa dạng hóa danh mục đầu tư. Còn một số khác như Warren Buffet lại chỉ thích đầu tư tập trung vào một số ít cổ phiếu. Ông nói: “Đa dạng hóa là cách để chống lại việc mình không biết. Nhưng nó chẳng có mấy ý nghĩa đối với những người biết rõ là họ đang làm gì”.
J. Paul Getty - một nhà đầu tư tài ba khác, cho rằng: “Hãy mua khi tất cả mọi người đều đang bán và hãy bán khi tất cả mọi người đang mua. Đây không đơn thuần chỉ là một khẩu hiệu dễ nhớ, mà nó còn rất cần thiết cho việc đầu tư thành công”.
6. Tập trung cao độ
Andrew Carnegie nói: “Những người thành công là những người chọn cho mình một con đường và gắn chặt lấy nó”.
Các nhà đầu tư thành công thường chỉ tập trung vào một phương tiện đầu tư. Họ chỉ đầu tư một lần vào một thời điểm. Ví dụ, Warren Buffet tập trung vào cổ phiếu, Jim Rogers thích các hợp đồng tương lai và Donal Trump thì ưa chuộng bất động sản.
7. Biết tận dụng các xu thế thị trường
Một đặc điểm khác của các nhà đầu tư thành công là họ luôn biết lấy các xu thế thị trường để làm lợi cho mình. Một nhà đầu tư bình thường sẽ hoảng loạn khi thị trường biến động, nhưng một nhà đầu tư chuyên nghiệp lại rất nóng lòng chờ đón điều đó. Đơn giản vì họ có thể kiếm tiền từ việc này.
Warren Buffet nói: “Hãy coi những sự biến động của thị trường là bạn chứ đừng coi là thù. Hãy kiếm lời từ những hành động điên rồ chứ đừng tham gia vào nó”.
8. Luôn luôn vững tin
Henry Ford nói: “Khi mọi thứ dường như đang quay lưng với bạn, thì hãy luôn nhớ rằng máy bay cất cánh được khi bay ngược chiều chứ không phải thuận chiều gió”.
Vì vậy, hãy luôn trung thành với chiến lược đầu tư của mình kể cả khi bạn được hay mất. Các nhà đầu tư bình thường thiếu sự kiên định, và do vậy họ mãi mãi chỉ là những người bình thường mà thôi. Họ nhảy hết chiến lược nọ đến chiến lược kia và chỉ chăm chăm tìm kiếm các bí quyết mới.
9. Chấp nhận rủi ro
Warren Buffet nói: “Rủi ro chỉ đến khi bạn không biết mình đang làm gì”.
Đầu tư vốn đã là một sự rủi ro, nhưng nó sẽ càng rủi ro hơn nếu bạn không biết mình đang làm gì. Với các nhà đầu tư chuyên nghiệp, cơ hội thắng thua luôn là 50 – 50. Nhưng sự khác biệt lớn giữa các nhà đầu tư chuyên nghiệp và nhà đầu tư thông thường là những người chuyên nghiệp luôn đầu tư với sự hỗ trợ của cả một hệ thống quản trị rủi ro mạnh mẽ.
10. Có kỉ luật
Nhà đầu tư thành công rất hà khắc với bản thân khi đầu tư. Bên cạnh các nguyên tắc đầu tư, họ cũng tự đặt ra cho mình những chuẩn mực rất khắt khe. Họ biết rằng mình sẽ phải tuân theo rất nhiều nguyên tắc để có thể kiên trì với chiến lược đầu tư của mình mà không bị dao động bởi lời nói của các chuyên gia.
Warren Buffet nói: “Hai nguyên tắc đầu tư của tôi là: Nguyên tắc số một – không bao giờ để mất tiền. Nguyên tắc hai – không bao giờ được quên nguyên tắc một”.
11. Biết cách tận dụng các đòn bẩy
Điểm khác biệt giữa một nhà đầu tư thành công và một nhà đầu tư thông thường là đầu tư bằng tiền của người khác. Dùng tiền của người khác để đầu tư cũng là một dạng đòn bẩy. Trong cuốn sách “Cha giàu - Cha nghèo” có câu: “Từ quan trọng nhất trong đầu tư là ‘dòng tiền’, và từ quan trọng thứ hai là ‘đòn bẩy’”.
Nhưng đây không phải là dạng đòn bẩy duy nhất mà các nhà đầu tư có thể tận dụng. Đó cũng có thể là đội ngũ chuyên gia của bạn, kinh nghiệm đầu tư hay thông tin nội bộ mà bạn có được.
J. Paul Getty nói: “Nếu bạn nợ ngân hàng 100 USD, đó là vấn đề của bạn. Nhưng nếu bạn nợ ngân hàng 100 triệu USD, thì đó lại là vấn đề của ngân hàng”.
12. Nhanh chóng rút kinh nghiệm từ thất bại
Khi nói về kinh nghiệm, các nhà đầu tư chỉ nói về những lần thử nghiệm, thất bại, các bài học và sự thành công. Bạn sẽ không thể trở thành một nhà đầu tư tài ba nếu chưa từng mắc sai lầm.
Những người thành công không bao giờ nản chí vì thất bại bởi họ hiểu rằng đó là một giai đoạn trong quá trình trở thành nhà đầu tư chuyên nghiệp. Những người bình thường coi việc mắc lỗi là tệ hại, nhưng những người thành công lại cho rằng đó là cơ hội để học được những điều mới mẻ.
13. Có một đội ngũ cố vấn chuyên nghiệp
Nếu quan sát các nhà đầu tư thành công, bạn sẽ thấy rằng họ luôn có một đội ngũ cố vấn chuyên nghiệp. Các nhà đầu tư thông thường luôn đơn độc chiến đấu trên thị trường, trong khi các nhà đầu tư chuyên nghiệp luôn có cả một hội đồng hậu thuẫn.
Họ có cả một mạng lưới bạn bè là những nhà đầu tư chuyên nghiệp. Họ chia sẻ lời khuyên và cùng nhau suy nghĩ. Vậy nếu bạn cũng muốn thành công như họ, thì hãy bắt đầu tìm kiếm bạn bè của mình ngay từ bây giờ.
14. Có một nền tảng tài chính vững mạnh
Ajaero Tony Martins nói: “Trí thông minh kinh doanh không hề được tạo ra trong trường học, mà bạn nhặt được nó ở trên đường. Trong trường học, bạn được dạy làm thế nào để quản lý tiền của người khác. Và ở trên đường, bạn được dạy làm thế nào để kiếm tiền”.
Do vậy, bạn chỉ thành công khi đứng ở trên đường. Các nhà đầu tư thành công thường có một nền tảng tài chính rất vững chắc, và nền tảng đó được hình thành ở trên đường. Họ bồi đắp cho cái nền tảng đó bằng cách tham gia các buổi hội thảo, đọc sách báo, tạp chí, học từ người khác hay nghe băng. Và sau đó họ đi ra ngoài để tự tìm lấy những kinh nghiệm cho mình.
15. Luôn nhiệt tình với trò chơi đầu tư
Một tác giả nổi tiếng đã từng nói: “Nếu bạn có ý định tham gia một trò chơi, hãy chọn cho mình một trò mà bạn có thể chơi suốt cuộc đời và gắn chặt lấy nó”.
Nếu bạn nhìn vào những nhà đầu tư thông thường, họ luôn nghĩ đến việc họ đang kiếm được bao nhiêu tiền. Nhưng những nhà đầu tư thành đạt không vội hài lòng với những gì mình có, mà luôn cố gắng đạt lợi nhuận tối đa.
J. Paul Getty nói: “Sự giàu có chính là phần thưởng của trò chơi kiếm tiền, và nếu bạn chiến thắng, tiền sẽ là của bạn”.
Hà Thu (theo Investorguide)